Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại 81980


gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản lý ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay

1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.2.1 Khái niệm

Khi bắt đầu xem xét một khoản tín dụng, ngân hàng cần lường trước những rủi ro có thể xảy ra. Đây cũng chính là xuất phát điểm hình thành nên những ý tưởng quản lý rủi ro tín dụng của NHTM. Mặc dù RRTD là một hiện tượng tiềm ẩn, nhưng do tính lặp lại của rủi ro nên có thể nhận biết được quy luật của nó, chính vì điều này mà ngân hàng có thể tìm ra những biện pháp quản lý nhằm hạn chế khả năng xảy ra RRTD và giảm thiểu nó một cách tối đa.

Như vậy, quản lý rủi ro tín dụng là: việc tổ chức, điều khiển và thực hiện các hoạt động, các quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng nhằm đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất mà ngân hàng có thể chấp nhận được. Quản lý RRTD bao gồm toàn bộ quá trình thẩm định đánh giá trước khi khoản vay được phê duyệt cùng với toàn bộ quá trình giám sát và báo cáo việc tuân thủ những cam kết tín dụng. Công tác quản lý này được thực hiện ngay từ khi xem xét hồ sơ xin vay vốn, thẩm định khách hàng, ký kết hợp đồng tín dụng và việc thực hiện giải ngân và kiểm soát khi cho vay đến việc thu nợ và xử lý nợ quá hạn.

Quản lý RRTD có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì RRTD mang tính gián tiếp, đa dạng, phức tạp, mang tính tất yếu, luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh lại phụ thuộc vào mức độ rủi ro. Mức thu nhập ngày càng cao thì mức độ rủi ro tiềm ẩn sẽ ngày càng lớn và ngược lại, điều đó được đúc kết qua thực tế, nhưng cho tới nay vẫn chưa có lời giải nào chính xác cho bài toán đó. Vì vậy, các NHTM mong muốn đạt được kết quả kinh doanh cao với mức độ rủi ro có thể kiểm soát được, tuỳ từng thời kỳ mà mỗi ngân hàng sẽ đề ra những kế hoạch và chiến lược khác nhau để giải quyết được cả hai vấn đề luôn tồn tại song hành Thu nhập và Rủi ro.

1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý RRTD

Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của NHTM. Phần lớn lợi nhuận của ngân hàng cũng được tạo ra từ chính nghiệp vụ này. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng yếu tố rủi ro luôn thường trực do đó việc kiểm soát cũng như các biện pháp phát hiện, phòng ngừa, hạn chế RRTD được đặc biệt chú ý. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng luôn là một tổ chức kinh tế hạch toán độc


lập và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Vì vậy, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình quản lý rủi ro tín dụng là một đòi hỏi cấp thiết với Ngân hàng thương mại của các cá nhân doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế

+ Đối với ngân hàng:

- Quản lý RRTD giúp Ngân hàng dự báo, phát hiện rủi ro tiềm ẩn, phát hiện những biến cố không có lợi, ngăn chặn các tình huống không có lợi đã và đang xảy ra và có thể lan ra phạm vi rộng.

- Quản lý RRTD giúp NH phòng ngừa và hạn chế được các khoản nợ khó đòi, giảm các khoản chi phí quản lý, giám sát, thu nợ… tăng lợi nhuận

- Quản lý RRTD giúp các món vay được thanh toán đầy đủ, đúng hạn…giúp ngân hàng tăng khả năng thanh toán.

- Tăng uy tín của NH trong nền kinh tế thị trường vì quản lý RRTD đảm bảo khả năng chi trả cho NH. Quản lý rủi ro tín dụng tốt sẽ làm gia tăng lợi nhuận của ngân hàng, khả năng tài chính của ngân hàng tăng… sẽ nâng cao được vị thế của ngân hàng trên thị trường trong và ngoài nước.

- Quản lý RRTD tốt giúp ngân hàng giảm nguy cơ phá sản.

+ Đối với khách hàng:

Quản lý rủi ro tín dụng giúp khách hàng tránh được việc phải trả lãi quá hạn với lãi suất lớn hơn (150%).Trong tình trạng khách hàng gặp rủi ro, việc trả lãi quá hạn đối với họ là một khó khăn trong tình trạng khách hàng đang suy yếu. Ngoài ra, việc để phát sinh lãi quá hạn còn khiến khách hàng mất uy tín đối với ngân hàng.

+ Đối với nền kinh tế:

Quản lý RRTD tốt giúp cho hoạt động của ngân hàng trôi chảy, từ đó giúp cho luồng tiền trong nền kinh tế không bị gián đoạn, hoạt động của nền kinh tế không bị ngừng trệ.

1.2.3. Nội dung của quản trị RRTD

1.2.3.1 Xây dựng chiến lược quản lý RRTD

Chiến lược quản lý RRTD của ngân hàng bao gồm các quan điểm, mục đích và mục tiêu cơ bản, giải pháp nhằm sử dụng một cách tốt nhất các nguồn lực của NHTM nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra trong việc kiểm soát RRTD của ngân hàng. Việc xây dựng chiến lược quản lý rủi ro của ngân hàng phụ thuộc vào từng thời kỳ nhất định, điều kiện bên trong và bên ngoài của ngân hàng, dựa trên một số căn cứ sau:


a. Căn cứ vào môi trường hoạt động của ngân hàng

Môi trường hoạt động của Ngân hàng bao gồm: tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn hoạt động của ngân hàng, tính chất lĩnh vưc mà ngân hàng cấp tín dụng, khả năng của các đối thủ cạnh tranh của ngân hàng và các quy định của cơ quan quản lý…

b. Căn cứ vào chính sách tín dụng của bản thân ngân hàng

Một trong những biện pháp quan trọng để các khoản tín dụng ngân hàng đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý và đảm bảo an toàn là việc hình thành một: “Chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả” cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý một khung chỉ dẫn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư. Những yếu tố quan trọng nhất thường cấu thành trong chính sách tín dụng của một ngân hàng là:

+ Các đối tượng có thể vay vốn

+ Mục đích của danh mục tín dụng ngân hàng xét theo các tiêu chí như: loại

tín dụng, kỳ hạn, độ lớn tín dụng, chất lượng tín dụng,…

+ Phân hạng thẩm quyền cho vay đối với từng cán bộ tín dụng và hội đồng tín dụng.

+ Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng và báo cáo thông tin trong nội bộ phòng tín dụng.

+ Các sản phẩm tín dụng khác nhau do ngân hàng cung cấp

+ Nguồn vốn dùng để tài trợ cho các hoạt động tín dụng

+ Danh mục hồ sơ vay vốn và phương thức quản lý danh mục cho vay

+ Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất tín dụng, mức phí và các điều kiện hoàn trả nợ vay.

+ Quy định những tiêu chuẩn chất lượng áp dụng chung cho tất cả các tín dụng.

+ Quy định giới hạn tín dụng tối đa, nghĩa là quy định về tỷ lệ tổng dự nợ,

tổng tài sản lớn nhất được phép.

+ Các phương án ưu tiên trong việc phát hiện, phân tích và xử lý tín dụng có

vấn đề.

c. Căn cứ vào hệ thống các nguyên tắc quản lý RRTD

+ Chiến lược quản lý RRTD phải phù hợp với chiến lược phát triển và chính sách tín dụng của ngân hàng.

+ Ngân hàng cần có bộ phận quản lý RRTD riêng, hoạt động độc lập với các bộ phận kinh doanh khác, đảm bảo tính trung thực trong việc nhìn nhận và phát hiện các rủi ro tiềm ẩn ngân hàng gặp phải.


+ Thực hiện phân cấp phân quyền hợp lý, giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích và trách nhiệm.

+ Quản lý RRTD được đặt trong mối tương quan với các rủi ro khác.

+ Nguyên tắc cân bằng giữa chi phí và lợi ích thu về: chi phí quản trị RRTD

phải thấp hơn thu nhập mang lại từ việc thực hiện nó.

1.2.3.2. Đánh giá và đo lường RRTD

a. Đánh giá RRTD

Mức độ rủi ro tín dụng cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan của mục đích vay vốn cũng như hoạt động của người vay vốn.

Các yếu tố khách quan

Các yếu tố khách quan thường là những nhìn nhận ban đầu và tổng quát về triển vọng của dự án cần vay vốn. Nếu dự án có triển vọng thành công cao thì rủi ro tín dụng thấp và ngược lại. Các yếu tố này bao gồm:

+ Môi trường kinh tế: thị trường, đối thủ cạnh tranh, khả năng tiêu thụ...

+ Sự phát triển của ngành liên quan: nếu ngành liên quan đến dự án đang ở giai đoạn phát triển thì dự án có nhiều khả năng thành công. Ngược lại; nếu ngành liên quan đến dự án đang ở giai đoạn suy thoái và có nhiều công ty trong ngành làm ăn thua lỗ thì khả năng thành công của dự án là thấp.

+ Môi trường pháp lý: Luật bảo hiểm, luật lao động, luật cạnh tranh... là những điều khoản cần được quan tâm khi đánh giá một dự án.

Các yếu tố chủ quan

Các yếu tố chủ quan có thể được hiểu là tính tin cậy của doanh nghiệp đi vay hay khả năng trả nợ của doanh nghiệp khi đến hạn. Nhân tố này được phân tích chủ yếu dựa vào các dữ liệu kế toán của doanh nghiệp.

+ Hiệu quả hoạt động hiện tại của doanh nghiệp: kết quả kinh doanh hàng quí

và hàng năm của doanh nghiệp.

+ Các khoản tín dụng hiện tại và lịch sử của các khoản tín dụng quá khứ của doanh nghiệp: Nếu hiện tại doanh nghiệp đang có các khoản vay khác và có các khoản vay tín dụng quá hạn chưa được thanh toán hay doanh nghiệp có các khoản vay tín dụng đã được thanh toán nhưng thường quá hạn phải chi trả... thì tính tin cậy của doanh nghiệp là thấp, và việc cho doanh nghiệp vay tín dụng sẽ có rủi ro cao.

+ Khả năng tài chính của doanh nghiệp: được căn cứ dựa vào vốn tự có, các khoản cho vay, tài sản thế chấp, người bảo lãnh...Các ngân hàng có thể đánh giá mức rủi ro tín dụng trên cơ sở xác định tỷ lệ tổng vốn cần vay của doanh


nghiệp/vốn tự có của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ này là cao thì rủi ro tín dụng cao, và ngược lại.

+ Tính thanh khoản cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Dù doanh nghiệp có tình trạng kinh tế tốt nhưng nếu tính thanh khoản hay khả năng huy động tiền mặt không cao thì doanh nghiệp có nhiều khả năng phải thanh toán nợ quá hạn quy định. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp có rủi ro tín dụng cao.

Mô hình phân tích đánh giá RRTD

Các nhà kinh tế, các nhà phân tích ngân hàng đã sử dụng nhiều mô hình đa dạng khác nhau để đánh giá RRTD. Bao gồm các mô hình phản ánh về mặt định lượng và định tính, còn được gọi là phương pháp chất lượng hay phương pháp chủ quan của RRTD. Ngoài ra, các mô hình này không phản biện lại nhau, chúng mang tác dụng bổ trợ lẫn nhau, vì thế một ngân hàng có thể áp dụng nhiều mô hình để phân tích đánh giá mức độ RRTD.

+ Mô hình định tính

Là mô hình truyền thống dựa vào đánh giá chủ quan của người cho vay, căn cứ vào việc trả lời một số câu hỏi để đưa ra quyết định có cấp tín dụng không? Một kiểu mô hình định tính thường dùng là mô hình 6C (6 khía cạnh của người cho vay):

(1)Character(tư cách người vay): Cán bộ tín dụng phải đánh giá tính đúng đắn và hợp lý của mục đích xin vay, xác định xem có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không? Thậm chí, cho dù mục đích xin vay là tốt thì cán bộ tín dụng cũng phải xác định xem người vay có tỏ thái độ trách nhiệm trong việc sử dụng vốn vay, có thiện chí và nỗ lực hoàn trả nợ vay khi đáo hạn. Trong thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp cũng như cá nhân có khả năng trả nợ nhưng không thanh toán cho ngân hàng, mà chiếm dụng vốn với mục đích cá nhân và các khoản đầu tư kiếm tìm lợi nhuận khác.

(2)Capacity(năng lực của người cho vay): Cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng người xin vay đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng, người đại diện đặt bút ký phải là người được ủy quyền hợp pháp của công ty, có tư cách pháp nhân. Năng lực hành vi dân sự của các nhân là khả ănng của cá nhân bằng hành vi của minh xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Còn năng lực pháp luật dân sự là khả năng của các nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.

(3)Cash(thu nhập của người vay): Nhìn chung, người vay có 3 khả năng tạo ra tiền: tiền từ doanh thu bán hàng hay lợi nhuận thu nhập; tiền từ thanh lý tài sản; tiền từ chứng khoán nợ hay chứng khoán vốn. Ngân hàng ưu tiên hơn về khả năng


trả nợ của khách hàng theo nguồn thu từ khoản vay đầu tiên, vì việc thanh lý tài sản sẽ làm cho năng lực khách hàng trở nên yếu đi, ngoài ra đó cũng là một biểu hiện không lành mạnh trong kinh doanh, khiến quan hệ tín dụng trở lên có vấn đề.

(4)Collateral(bảo đảm tiền vay): khách hàng có thể dùng tài sản để bảo đảm dưới các hình thức: cầm cố, thế chấp, tín chấp, hay bảo lãnh từ bên thứ ba,…Việc nhận bảo đảm tín dụng nhằm 2 mục đích: thứ 1 là nếu người đi vay không trả nợ theo đúng thỏa thuận, thì ngân hàng sẽ thanh lý tài sản đó để thu hồi nợ đọng; thứ 2 là để ràng buộc người vay phải có trách nhiệm nhiều hơn trong việc hoàn trả nợ vay để thu hồi tài sản bảo đảm của mình, tạo uy tín và trở thành khách hàng thân thiết của các ngân hàng.

(5)Conditions(các điều kiện): Ngân hàng cần xem xét các khía cạnh khác như: xu hướng hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay, điều kiện kinh tế thay đổi sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến công việc của người vay,…

(6)Control(kiểm soát): Tập trung vào những vấn đề như: các thay đổi trong luật pháp có ảnh hưởng đến người vay hay không? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng và của quản lý về chất lượng tín dụng không?

Tóm lại, chỉ khi nào các tiêu chí này đều được đánh giá là tốt thì khoản vay mới được xem là khả thi. Các cán bộ tín dụng cần phải nhìn nhận vấn đề một cách tổng thể để ra quyết định tín dụng.

+ Mô hình định lượng

Ngày nay, một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng hóa RRTD của người vay. Mô hình này có ưu điểm là cho phép xử lý nhanh chóng một khối lượng lớn các đơn xin vay với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát RRTD ngân hàng. Sau đây là một số mô hình lượng hóa RRTD cơ bản thường được sử dụng nhất:

Mô hình điểm số Z

Mô hình này do E.I.Altman xây dựng để cho điểm tín dụng đối với các công ty sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối với người vay và phụ thuộc vào:

- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xј)

- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ

Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:

Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + X5


Trong đó:

X1 = Tỷ số vốn lưu động ròng trên tổng tài sản

X2 = Tỷ số lợi nhuận giữ lại trên tổng tài sản

X3 = Tỷ số lợi nhuận trước thuế, tiền lãi trên tổng tài sản X4 = Tỷ số giá trị cổ phiếu trên giá trị ghi sổ nợ dài hạn X5 = Tỷ số doanh thu trên tổng tài sản

Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp và ngược lại (Trị số Z có thể âm). Theo mô hình cho điểm của Altman bất cứ đơn vị nào có điểm số Z thấp hơn 1,81 được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao. Căn cứ vào kết luận này, ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng hay cho đến khi cải thiện được điểm số Z lớn hơn 1,81

Mô hình xếp hạng của Moody’s

Mô hình này xếp hạng tình trạng hoạt động của doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ rủi ro hàng năm, chất lượng này thay đổi hàng năm. Các doanh nghiệp được xếp hạng cao khi tỷ lệ rủi ro dưới 0,1%.

Bảng 1.1: Xếp hạng doanh nghiệp của Moody’s


Xếp hạng

Tình trạng

Tỷ lệ rủi ro hàng năm

Aaa

Chất lượng cao nhất

0,02%

Aa

Chất lượng cao

0,04%

A

Chất lượng khá

0,08%

Baa

Chất lượng vừa

0,2%

Ba

Nhiễu yếu tố đầu cơ

1,8%

B

Đầu cơ

8,3%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chi nhánh Hà Nội - 4


b. Đo lường rủi ro tín dụng

Đo lường rủi ro tín dụng là điều mà tất cả các nhà quản lý đều rất quan tâm vì nó giúp ngân hàng loại bỏ những khách hàng có mức độ rủi ro quá cao và nhận biết trước những rủi ro có thể xảy ra. Nó giúp khách hàng hiểu rõ hơn những điểm mạnh, điểm yếu của chính khách hàng để từ đó tư vấn cho khách hàng những biện pháp đảm bảo vay vốn phù hợp. Đồng thời qua đó, ngân hàng có thể đưa ra nhiều sản phẩm hơn, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

Theo Basel II các ngân hàng sẽ sử dụng các mô hình dựa trên hệ thống dữ liệu


nội bộ để xác định khả năng tổn thất tín hay tổn thất dự kiến EL (Expected Loss) theo khả năng vỡ nợ PD (Probability of Default) với mức độ tổn thất khi vỡ nợ LGD (Loss Given Default) theo công thức sau:

EL = EAD x PD x LGD

Trong đó:

EAD (Exposure at Default): Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. Đối với khoản vay có kỳ hạn, EAD được xác định không quá khó khăn. Tuy nhiên với khoản vay theo hạn mức tín dụng, tín dụng tuần hoàn thì lại khá phức tạp và EAD được tính như sau:

EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân

LEQ: Loan Equivalent Exposure: là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều

khả năng sẽ được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ.

LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân”: là phần dư nợ

khách hàng rút thêm tại thời điểm khồn trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân.

PD (khả năng vỡ nợ): cơ sở của xác suất này là các số liệu về các khoản vay trong quá khứ của khách hàng gồm các khoản nợ đã trả, nợ trong hạn, nợ không có khá năng thu hồi.

LGD (tỷ trọng tổn thất ước tính): là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dự nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ, đó chính là lãi suất đến hạn nhưng không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh.

LGD có thể được tính toán theo công thức sau:

LGD = (EAD - Số tiền có thể thu hồi)/EAD

Trong đó số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền thu được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố.

Ngoài ra LGD còn được tính như sau:

LGD = 100% - tỷ lệ vốn có thể thu hồi được

Tỷ lệ vốn có thể thu hồi được là khả năng thu hồi vốn của ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ. Hai yếu tố quan trọng nhất quyết định tỷ lệ này là tài sản bảo đảm của khoản vay và cơ cấu tài sản của khách hàng, trong đó cơ cấu tài sản được hiểu như là thứ tự ưu tiên trả nợ của các khoản phải trả trong trường hợp khách hàng phá sản

Theo các công thức này, nếu mỗi món cho vay là một phép thử, ta có thể xác định được một cách tương đối chính xác xác suất và mức độ bị rủi ro của từng loại tài sản của ngân hàng trong từng thời kỳ, từng loại hình tín dụng, từng lĩnh vực đầu

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí