Nâng cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2


Cụ thể, (i) nếu NHTW theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và tạo nhiều công ăn việc làm, thất nghiệp thấp thì chỉ số lạm phát sẽ có xu hướng tăng lên, ít nhất là trong trung và dài hạn; và khi lạm phát tăng lên, sẽ tác động đến nền kinh tế, ảnh hưởng đến tính ổn định, an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng. (ii) Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước biến đổi. Do đó, khi có nhiều mục tiêu đòi hỏi NHTW phải thận trọng và linh hoạt trong việc lựa chọn mục tiêu và xác định thứ tự ưu tiên mục tiêu.

NHTW với nhiều mục tiêu là mô hình NHTW truyền thống. Xu hướng ngày nay, NHTW hiện đại chỉ theo đuổi mục tiêu duy nhất và cũng là mục tiêu cuối cùng. NHTW hiện đại với mục tiêu duy nhất (mục tiêu cuối cùng) có ưu điểm hơn so với mô hình NHTW với nhiều mục tiêu, đó là : (i) NHTW sẽ lựa chọn công cụ CSTT phù hợp tác động để đạt được mục tiêu này; (ii) sẽ đánh giá cụ thể được hiệu quả hoạt động của NHTW thông qua điều hành CSTT nhằm đạt được mục tiêu duy nhất; (iii) tạo điều kiện cho NHTW tập trung vào mục tiêu duy nhất này. [34]

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là để đạt được mục tiêu cuối cùng, NHTW không thể tác động một cách trực tiếp mà là tác động gián tiếp thông qua các công cụ CSTT. Mục tiêu cuối cùng thường là mục tiêu trung hạn và có một độ trễ nhất định (từ 6 tháng đến 12 tháng). Hiện nay mục tiêu cuối cùng của CSTT được NHTW các nước lựa chọn đó là ổn định giá cả, lạm phát thấp và ổn định, từ đó sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế tạo công việc làm; và một tác động tích cực quan trọng đó là với mục tiêu cuối cùng đạt được giá cả ổn định, lạm phát thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Trung ương đối với hoạt động của hệ thống NHTM.

Trong quá trình truyền dẫn CSTT để đạt được mục tiêu cuối cùng này, NHTW phải sử dụng các mục tiêu trung gian. Mục tiêu trung gian là các biến số tiền tệ có quan hệ với các biến số kinh tế vĩ mô (Tăng trưởng


kinh tế, ổn định giá cả,…). Chỉ tiêu sử dụng làm mục tiêu trung gian gồm : lượng tiền cung ứng; lãi suất thị trường; tổng khối lượng tín dụng; tỷ giá…

Mục tiêu hoạt động (hay mục tiêu công cụ) là các biến tiền tệ mà NHTW kiểm soát và dự báo trước được tác động thông qua việc sử dụng các công cụ CSTT nhằm đạt được mục tiêu trung gian, từ đó tác động đến mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu hoạt động được chia ra : mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ và mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ.

Mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ có nghĩa là những thay đổi tạm thời của cung và cầu tiền cơ bản chỉ nhằm đạt được mục tiêu là đảm bảo lãi suất ngắn hạn trên thị trường xoay quanh lãi suất mục tiêu. Mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ, NHTW không điều tiết thay đổi của cầu tiền cơ bản và bỏ qua những tác động của lãi suất mà chỉ quan tâm đến tiền cơ bản có phù hợp với mục tiêu hay không [1]. Quan hệ giữa các mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng được tóm tắt trong bảng 1.1 dưới đây :

Bảng 1.1 Quan hệ giữa mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ


Mục tiêu hoạt động

Mục tiêu trung gian

Mục tiêu cuối cùng

- Giá cả tiền tệ.

- Khối lượng tiền tệ.

...

- Tổng tiền cung ứng.

- Lãi suất thị trường

- Ổn định giá cả.

- Tăng trưởng kinh tế, tạo công việc làm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà nước đối với hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2

1.1.1.2- Chức năng của Ngân hàng Trung ương


- Phát hành tiền và điều tiết lượng tiền cung ứng. NHTW giữ độc quyền phát hành tiền giấy và tiền kim loại. Để đảm bảo giá trị tiền tệ ổn định việc phát hành tiền phải tuân thủ theo các nguyên tắc nhất định. NHTW còn tham gia và kiểm soát việc tạo tiền trong hệ thống các NHTM, thông qua quá trình cho vay, thanh toán bằng chuyển khoản. NHTW không chỉ thực


hiện chức năng phát hành tiền mà còn thực hiện việc điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện CSTT quốc gia.

- Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của các ngân hàng. Chức năng này thể hiện ở chỗ : NHTW mở tài khoản, bảo quản dự trữ tiền tệ và là trung tâm thanh toán cho các ngân hàng; là người cho vay cuối cùng đối với NHTM; được thực hiện các biện pháp khẩn cấp cần thiết để đối phó khi xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ.

- Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng của Nhà nước. Thực hiện chức năng này NHTW quản lý, giám sát hệ thống ngân hàng, TCTD đảm bảo an toàn, lành mạnh (Được phân tích chi tiết trong chương này).

1.1.1.3- Vị thế của Ngân hàng Trung ương


Trong điều kiện các nước hội nhập kinh tế thế giới và khu vực nói chung và thị trường tài chính - tiền tệ nói riêng ngày càng sâu rộng, để NHTW có thể thực hiện tốt chức năng của mình, đòi hỏi phải nâng cao vị thế của NHTW. Vị thế của NHTW được nâng lên, khi được quy định rõ trong Luật NHTW : địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHTW; trách nhiệm quyền hạn của NHTW (trong mối quan hệ với Chính phủ và Quốc hội) đối với việc hoạch định, điều hành CSTT quốc gia và đối với việc ổn định hệ thống tài chính.

Tuy mức độ độc lập của NHTW các nước có khác nhau, nhưng nhìn chung xu hướng NHTW của các nước trên thế giới ngày càng trở nên độc lập hơn với Chính phủ và Quốc hội. Tính độc lập được thể hiện thông qua ba hình thức : (i) độc lập về nhân sự, (ii) độc lập về chính sách, và (iii) độc lập về tài chính.

- Độc lập về nhân sự. Thông qua hình thức này, Thống đốc NHTW được quyền quyết định các vấn đề về nhân sự (bổ nhiệm, miễn nhiệm, tuyển dụng, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật, chế độ trả lương ….) thuộc


quyền quản lý của mình. Đối với nhân sự chủ chốt của NHTW và các thành viên của Hội đồng CSTT Quốc gia do Quốc hội và Chính phủ quyết định.

Để đảm bảo CSTT thể hiện quan điểm của các thành phần trong nền kinh tế, cơ cấu Hội đồng CSTT Quốc gia thường bao gồm đại diện Quốc hội, Chính phủ, NHTW, chuyên gia kinh tế tài chính ngân hàng, doanh nghiệp, đại diện Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư...Tỷ lệ phần lớn các thành viên của Hội đồng là người của NHTW và Chủ tịch Hội đồng thường là Thống đốc NHTW. Hội đồng CSTT Quốc gia luôn được đổi mới và có tính kế thừa, hàng năm có một tỷ lệ nhất định thành viên mới. Các thành viên mới này được chỉ định hoặc bầu bổ sung bởi các nhiệm kỳ Quốc hội, Chính phủ.

Nhằm nâng cao tính độc lập của NHTW, nhiệm kỳ của Thống đốc NHTW và các nhân sự chủ chốt thường lệch pha hoặc được kéo dài hơn so với nhiệm kỳ của các thành viên Quốc hội và Chính phủ, để tránh áp lực chính trị.

Thống đốc NHTW và các thành viên Hội đồng CSTT Quốc gia có trách nhiệm báo cáo các hoạt động của mình theo định kỳ hoặc đột xuất theo yêu của Ủy ban đặc trách của Quốc hội và Chính phủ. Đối với các nước Thống đốc NHTW không phải là thành viên của Chính phủ, do đó không phải báo cáo giải trình trước Quốc hội. Chỉ có Quốc hội mới được quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm để thay thế Thống đốc NHTW trong trường hợp Thống đốc NHTW không hoàn thành nhiệm vụ. Còn Thủ tướng Chính phủ (đứng đầu Chính phủ) không có quyền phế truất trực tiếp, nhưng có quyền đề nghị Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thống đốc NHTW.[1]


- Độc lập về chính sách.


Nhiều nước mục tiêu cuối cùng của CSTT thường được quy định trong Luật và do Quốc hội quyết định. Đối với mục tiêu trung gian (tổng tiền cung ứng, lãi suất thị trường) và việc sử dụng các công cụ CSTT, giao cho NHTW quyết định để nâng cao tính độc lập về chính sách của NHTW. Để đạt được mục tiêu trung gian, bước kế tiếp NHTW xác định mục tiêu hoạt động (có thể lấy lãi suất thị trường liên ngân hàng làm định hướng…). Mục tiêu hoạt động thường do Hội đồng CSTT Quốc gia (bao gồm các thành phần nói trên) quyết định thông qua các cuộc họp định kỳ và là căn cứ cho NHTW được chủ động linh hoạt trong điều hành các công cụ CSTT. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường, không chỉ góp phần đạt được mục tiêu cuối cùng, mà còn góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các NHTM.

- Độc lập về tài chính.


Sự chi tiêu, vay nợ quá mức của Chính phủ từ NHTW, sẽ khó khăn cho NHTW trong việc đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Do đó, NHTW cần được độc lập về mặt tài chính. Độc lập về mặt tài chính sẽ cho phép NHTW được chủ động trong việc quyết định phạm vi và mức độ tài trợ cho chi tiêu của Chính phủ một cách trực tiếp hay gián tiếp thông qua con đường tín dụng của NHTW.

Với dự toán tài chính được Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (hoặc Hội đồng quản trị của NHTW hoặc một Ủy ban trong đó có đại diện của Quốc hội và đại diện Chính phủ), Thống đốc NHTW được quyền quyết định chi tiêu theo dự toán tài chính đã được phê duyệt. Như vậy với dự toán tài chính được phê duyệt, NHTW không phải phụ thuộc vào sự cấp phát tài chính của Chính phủ (thông qua Bộ Tài chính).


1.1.2- Hoạt động của các Ngân hàng thương mại 1.1.2.1- Khái niệm Ngân hàng thương mại

Thuật ngữ "ngân hàng" đã có từ lâu. Trải qua quá trình phát triển, quan niệm về ngân hàng và hoạt động ngân hàng có nhiều thay đổi. Với các dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và phát triển, nên các nước phân chia ra các dạng ngân hàng khác nhau để có phương thức quản lý phù hợp. Do đó, quan niệm về ngân hàng thay đổi theo sự phát triển về kinh tế, pháp luật và tập quán của từng quốc gia. Đến nay có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng :

- Theo pháp luật nước Mỹ : “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (bằng cách ký phát séc hay bằng việc rút tiền điện tử) và cấp tín dụng đối với tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một ngân hàng”.

- Theo Đạo luật Ngân hàng của Pháp ngày 03/06/1942 quy định : "Được xem là ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào làm nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc hình thức khác, những khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ tín dụng hay nghiệp vụ tài chính".

- Tại Ấn Độ, NHTM được coi là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ và đầu tư.

- Theo Ngân hàng thế giới (Wordbank) : “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm)”; các ngân hàng bao gồm : các NHTM chỉ tham gia vào các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay ngắn - trung - dài hạn; các Ngân hàng đầu tư tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành; các Ngân hàng địa ốc cung cấp tài chính cho lĩnh vực phát triển nhà


ở và các loại khác. Ngoài ra, tại một số nước còn có ngân hàng đa năng, kết hợp hoạt động NHTM với hoạt động ngân hàng đầu tư và cả dịch vụ bảo hiểm.

- Theo quy định Luật các TCTD số 47/2010/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010 : Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng bao gồm : nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm NHTM, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.

NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng (nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản) và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Từ một số định nghĩa trên đây của một số nước về ngân hàng có thể rút ra :

- NHTM là tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ với chức năng trung gian tín dụng; huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng nguồn vốn huy động được để cấp tín dụng;

- NHTM là loại hình DN tài chính đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và thanh toán; là một định chế tài chính trung gian và quan trọng nhất trong hệ thống các TCTD;

- Ngoài các lĩnh vực hoạt động truyền thống (huy động, cấp tín dụng, trung gian thanh toán) thì các NHTM hiện đại còn cung cấp các danh mục tài chính đa dạng nhất.


1.1.2.2- Đặc điểm hoạt động của các Ngân hàng thương mại


- NHTM là loại ngân hàng hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện thông qua các hình thức : huy động vốn, trên cơ sở đó cấp tín dụng cho khách hàng (cho vay, chiết khấu chứng từ có giá, bao thanh toán, bảo lãnh, cho thuê tài chính). Hoạt động dịch vụ của NHTM được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền, ngân quỹ, kiều hối, uỷ thác (bảo quản, thu hộ, chi hộ..), dịch vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin, ngân hàng điện tử…

Các dịch vụ gắn liền với hoạt động ngân hàng không những tạo điều kiện cho NHTM đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng là cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế, mà còn hỗ trợ tích cực cho NHTM thực hiện tốt chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán. Các dịch vụ mà NHTM cung cấp cho khách hàng, không chỉ đơn thuần là để thu phí và/hoặc hưởng hoa hồng, yếu tố làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho NHTM, mà thông qua các dịch vụ này nhằm hỗ trợ các hoạt động chính của NHTM, mà trước hết là hoạt động cấp tín dụng. [8]

- Sự gia tăng nhanh chóng trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ của NHTM. Nhằm tìm kiếm lợi nhuận, các NHTM không ngừng đa dạng hoá dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng, đa dạng hoá dịch vụ tài chính - ngân hàng tăng lên trong các năm gần đây trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các tổ chức tài chính khác, từ sự phát triển công nghệ, từ sự đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng. Các NHTM đối phó với các đối thủ cạnh tranh (tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ sang lĩnh vực bảo hiểm, môi giới chứng khoán và các dịch vụ khác. Với các dịch vụ tài chính mới đã tạo ra nguồn thu mới, nhưng đồng thời cũng làm tăng chi phí cho các NHTM và dẫn đến rủi ro phá sản NHTM cũng tăng lên. Do đó, đòi hỏi sự cần thiết phải tăng cường


và nâng cao hiệu quả quản lý của NHTW đối với hoạt động của các NHTM.

- NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện. Muốn được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh, NHTM phải thoả mãn các điều kiện bắt buộc do pháp luật quy định (phải có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định; người quản lý, người điều hành, thành viên ban kiểm soát có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định; có Điều lệ phù hợp với quy định....).

- NHTM là loại hình kinh doanh hàng hoá đặc biệt. Khác với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá thông thường, đối với NHTM kinh doanh hàng hoá đặc biệt - đó là hàng hoá tiền tệ. Do đó, mức độ rủi ro đối với NHTM sẽ lớn hơn rất nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và có thể ảnh hưởng dây chuyền đến hệ thống tài chính ngân hàng. Thông qua vai trò trung gian tài chính của mình, các NHTM huy động vốn từ nền kinh tế và cấp tín dụng cho khách hàng dưới nhiều hình thức. Trong các hình thức cấp tín dụng, thì cho vay là hình thức cấp tín dụng có khả năng tạo ra nhiều rủi ro cho NHTM; rủi ro tín dụng xảy ra, sẽ dẫn đến rủi ro đối với tiền gửi của khách hàng tại NHTM và đối với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động NHTM tại các nước trên thế giới thường xuyên được quản lý, giám sát và điều tiết hết sức chặt chẽ bởi NHTW thông qua hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt và CSTT, nhằm góp phần đảm bảo cho hoạt động ngân hàng an toàn, lành mạnh.

- Phần lớn các hoạt động kinh doanh của NHTM tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để phòng ngừa, hạn chế các rủi ro trong quá trình hoạt động, NHTM cần nhận biết, lượng hoá và có biện pháp phòng chống rủi ro. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà NHTM luôn phải đối mặt bao gồm : rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro hoạt động, rủi ro tài chính…Các loại rủi ro tác động đến NHTM đều có thể kéo


theo nhiều hậu quả khác cho hệ thống tài chính ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.

1.1.2.3- Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại


Hoạt động của NHTM ngày càng phát triển và đa dạng, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và trình độ phát triển kỹ thuật công nghệ của mỗi quốc gia. Nhưng nhìn chung, có thể chia hoạt động NHTM thành ba nhóm nghiệp vụ chủ yếu : nghiệp vụ nguồn vốn; nghiệp vụ tín dụng và đầu tư ; nghiệp vụ kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Các nghiệp vụ NHTM được phản ánh trong Bảng Tổng kết tài sản (hoạt động nội bảng) và ngoài Bảng Tổng kết tài sản (hoạt động ngoại bảng).

Các nghiệp vụ ngân hàng liên quan đến tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí được phản ánh trong Bảng Tổng kết tài sản của NHTM; còn các nghiệp vụ khác của NHTM tuy không làm thay đổi các khoản mục tài sản, nguồn vốn, nhưng có nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến tính an toàn và kết quả kinh doanh chung của NHTM, phải được phản ánh, theo dõi ở các tài khoản ngoại bảng. Do đó, khi phân tích, đánh giá kết quả hoạt động của NHTM, không chỉ căn cứ vào các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản, mà còn căn cứ các hoạt động được theo dõi ngoài bảng tổng kết tài sản.

Các nghiệp vụ ngân hàng được phản ánh, theo dõi ở các tài khoản ngoại bảng bao gồm : các cam kết về bảo lãnh (vay vốn, thanh toán, thực hiện hợp đồng, dự thầu..); các cam kết về giao dịch về hối đoái (giao dịch mua bán ngoại tệ trao ngay spot, giao dịch mua bán ngoại tệ có kỳ hạn Forward, giao dịch hoán đổi tiền tệ Swaps, giao dịch quyền chọn mua - bán tiền tệ Options, giao dịch tương lai tiền tệ Futrues, các chứng từ có giá trị ngoại tệ); nghiệp vụ uỷ thác, đại lý; dịch vụ giữ hộ tài sản, kim loại quý đá quý; tài sản thế chấp cầm cố…

(1)- Nghiệp vụ nguồn vốn


Nghiệp vụ nguồn vốn (hay còn gọi là nghiệp vụ Nợ), đây là nghiệp vụ ban đầu nhằm tạo lập nguồn vốn hoạt động cho NHTM. Nghiệp vụ nguồn vốn lúc nào cũng được các nhà lãnh đạo, quản lý điều hành NHTM đặc biệt quan tâm chú ý đến, vì ngân hàng nào tạo lập được nhiều nguồn vốn thì có điều kiện tăng quy mô, mở rộng hoạt động tín dụng và đầu tư. Nguồn vốn của NHTM bao gồm : vốn chủ sở hữu; vốn huy động; vốn đi vay và một số nguồn vốn khác. [8]

- Vốn chủ sở hữu


Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn ban đầu và luôn được bổ sung trong quá trình hoạt động và phát triển của NHTM. Vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn (xấp xỉ từ 5% đến 10%), nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với NHTM. Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm : vốn điều lệ và các quỹ của ngân hàng (quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ; quỹ đầu tư phát triển kỹ thuật, nghiệp vụ; quỹ dự phòng; quỹ khen thưởng, phúc lợi…) được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại.

Vốn điều lệ là số vốn ban đầu, được hình thành từ khi thành lập NHTM và không ngừng được bổ sung trong quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi NHTM. Nguồn vốn này là bộ phận chủ yếu trong nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng và có các ý nghĩa sau : là thước đo năng lực tài chính của mỗi NHTM; tạo điều kiện cho việc phát triển, mở rộng quy mô hoạt động NHTM (mua sắm tài sản, trang thiết bị; xây dựng cơ sở vật chất; mở rộng mạng lưới chi nhánh; tham gia góp vốn liên doanh, liên kết...) và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trước các đối thủ; là vùng đệm để chống đỡ rủi ro cho NHTM trong quá trình hoạt động kinh doanh…


Vốn điều lệ được hình thành từ các nguồn khác nhau, tùy thuộc vào tính chất sở hữu của NHTM. Đối với NHTM Nhà nước, vốn điều lệ được Nhà nước cấp ban đầu và được cấp bổ sung khi cần thiết. Đối với NHTM cổ phần, vốn điều lệ do các cổ đông đóng góp khi thành lập và trong quá trình hoạt động được tăng vốn điều lệ khi được phép. Đối với NH liên doanh, vốn điều lệ được các bên liên doanh góp vốn theo hợp đồng liên doanh. Đối với NH 100% vốn nước ngoài, vốn điều lệ do Ngân hàng mẹ ở nước ngoài hoặc/và do các thành viên tham gia góp vốn; tuỳ thuộc vào NH 100% vốn nước ngoài là loại hình Công ty TNHH một thành viên hoặc loại hình Công ty TNHH từ hai thành viên trở lên.

- Vốn huy động


Ngoài vốn chủ sở hữu nói trên, trong quá trình hoạt động các NHTM còn huy động vốn trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn kinh doanh của mình. Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng, bởi vì vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM. Căn cứ theo tính chất, vốn huy động có thể phân thành hai nhóm :

+ Đối với nguồn vốn huy động hoạt kỳ.


Nguồn vốn huy động hoạt kỳ gồm : tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác; tiền gửi không kỳ hạn của TCTD khác. Đặc điểm của loại tiền gửi này là khách hàng được linh hoạt sử dụng mà không cần thông báo trước cho NHTM; khách hàng được sử dụng tiền gửi này trong các giao dịch thanh toán, chuyển tiền thông qua các phương thức thanh toán do NHTM quy định; khách hàng gửi tiền vào tài khoản này không nhằm mục đích hưởng lãi, mà chủ yếu phục vụ nhu cầu giao dịch thanh toán, chuyển tiền. Chính vì các đặc điểm của loại tiền gửi này trên đây, để thu hút được nguồn vốn này ngày càng nhiều, các

Xem tất cả 147 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí