Nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015 - 2


24.

HPG

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Tập đoàn Hoà Phát

25.

HSC

Công ty cổ phần chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

26.

HT1

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Xi măng Hà Tiên 1

27.

IPO

Phát hành lần đầu ra công chúng

28.

IT

Công nghệ thông tin

29.

KBC

Mã chứng khoán của công ty cổ phần phát triển Đô thị Kinh

Bắc

30.

KCN

Khu công nghiệp

31.

KEVS

Công ty cổ phần chứng khoán KimEng Việt Nam

32.

KLS

Công ty chứng khoán Kim Long

33.

LNST

Lợi nhuận sau thuế

34.

M&A

Mua bán và sáp nhập

35.

Nghị định

36.

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

37.

NHTM

Ngân hàng Thương mại

38.

NHTMCP

Ngân hàng Thương mại Cổ phần

39.

OTC

Thị trường chứng khoán phi tập trung

40.

PPC

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Nhiệt điện Phả Lại

41.

PVD

Ma chứng khoán của công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ

Khoan Dầu khí

42.

PVI

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt

Nam

43.

PVS

Mã chứng khoán của Tổng công ty cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật

Dầu khí

44.

PVT

Mã chứng khoán của Tổng công ty cổ phần Vận tải Dầu khí

45.

Quyết định

46.

RIC

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Quốc tế Hoàng Gia

47.

ROA

Hệ số thu nhập trên tài sản

48.

ROE

Hệ số thu nhập trên vốn cổ phần

49.

SATRA

Tổng công ty Thương mại Sài Gòn

50.

SBS

Công ty chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín

51.

SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015 - 2


52.

SSI

Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn

53.

TNC

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Cao su Thống nhất

54.

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

55.

TPCP

Trái phiếu chính phủ

56.

TRC

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Cao su Tây Ninh

57.

TPDN

Trái phiếu doanh nghiệp

58.

TSC

Mã chứng khoán của công ty cổ phần kỹ thuật nông nghiệp

Cần Thơ

59.

TTCK

Thị trường chứng khoán

60.

TTGDCK

Trung tâm giao dịch chứng khoán

61.

UBCKNN

Uỷ ban chứng khoán Nhà nước

62.

VCBS

Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Ngân hàng

thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

63.

VFM

Công ty cổ phần Quản lý Quỹ Đầu tư chứng khoán

64.

VIC

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Vincom

65.

VIS

Công ty cổ phần chứng khoán Quốc tế Việt Nam

66.

VNIndex

Chỉ số chứng khoán Việt Nam

67.

VPBS

Công ty trách nhiệm hữu hạn chứng khoán Ngân hàng ngoài

quốc doanh

68.

VTO

Mã chứng khoán của công ty cổ phần Vận tải xăng dầu

VITACO

69.

WTO

Tổ chức thương mại Thế giới

70.

XNK

Xuất nhập khẩu

71.

YTM

Lợi suất đầu tư

LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Được thành lập vào tháng 7/2000, cho đến nay thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trải qua gần 10 năm hoạt động với các giai đoạn thăng trầm, từ lúc phát triển quá nóng sang tới giai đoạn suy thoái và hiện nay đang ở giai đoạn khởi sắc với những bước phát triển khá mạnh cả về chất và lượng. Sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm vừa qua có thể chưa thuyết phục được sự mong đợi của thị trường, nhưng phải thừa nhận rằng với những kết quả đạt được, đó là sự cố gắng, nỗ lực lớn của các chủ thể tham gia trên thị trường cũng như cấp, ngành quản lý. Nhìn một cách tổng quát thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua đã đạt được những thành công đáng kể. Quy mô của thị trường không ngừng được mở rộng với tốc độ nhanh hơn, mạnh mẽ hơn đã làm xuất hiện hàng loạt các công ty chứng khoán. Là thành viên của thị trường, các công ty chứng khoán đã đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của hai Trung tâm giao dịch chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung.

Hiện nay, với sự ra đời và đi vào hoạt động của 105 công ty chứng khoán đã mang lại cho thị trường những bước phát triển mới, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu phát triển của thị trường nhưng đồng thời cũng tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt giữa các công ty chứng khoán. Hơn thế nữa, năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này đã mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức to lớn về cạnh tranh và hội nhập đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng.

Bên cạnh những bước phát triển đáng ghi nhận của thị trường chứng khoán Việt Nam và các công ty chứng khoán trong thời gian vừa qua, hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam hiện nay vẫn bộc lộ nhiều hạn chế và chưa thực sự đem lại hiệu quả. Trong khi đó, trong môi trường hội nhập, cạnh tranh gay gắt như hiện nay để có thể tồn tại và phát triển được, các công ty chứng khoán Việt Nam buộc phải tìm cách nâng cao hiệu quả hoạt động của mình để tự khẳng định vị thế

trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn bức thiết đó, em xin được lựa chọn nghiên cứu đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2010- 2015 ” cho bài khóa luận của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Năm 2008 là một năm đầy thách thức và khó khăn đối với thị trường chứng khoán thế giới nói chung và thị trường Việt Nam nói riêng. Đứng trước những biến động bất lợi của thị trường chứng khoán trong năm 2008, là một chủ thể trên thị trường, hoạt động của các công ty chứng khoán cũng bị ảnh hưởng hết sức nặng nề. Điều này chứng tỏ trước các rủi ro và biến cố của thị trường, các công ty chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thực sự chủ động, và còn tồn tại nhiều yếu điểm. Trước thực tiễn đó, bài khoá luận của em nhằm mục đích nghiên cứu và đánh giá đúng thực chất về hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2007-2009. Từ đó, phát hiện những thiếu sót, tìm ra những nguyên nhân gây hạn chế trong hoạt động của các công ty chứng khoán. Đồng thời, trong bài luận văn của mình, em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam trong điều kiện hội nhập.

3. Đối tượng nghiên cứu

Nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam, nên đối tượng nghiên cứu của bài luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của các công ty chứng khoán Việt Nam trên thị trường chứng khoán.

4. Phạm vi nghiên cứu

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán trong những năm gần đây là sự tăng vọt về số lượng các công ty chứng khoán có mặt trên thị trường. Từ con số 55 công ty chứng khoán vào năm 2006, số lượng công ty chứng khoán tính tới quý 1 năm 2010 đã tăng gần gấp đôi lên 105 công ty. Số lưọng công ty chứng khoán lớn vừa là một lợi thế để nâng cao tính bao quát của vấn đề nghiên cứu, vừa là một khó khăn khi phân tích và tổng hợp số liệu. Do những khó khăn đó, trong bài luận văn của mình, em xin đi sâu vào việc phân tích tình hình hoạt động

của một số công ty chứng khoán tiêu biểu. Đó là công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI), công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC), công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCBS), công ty cổ phần chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HSC), công ty cổ phần chứng khoán Hải Phòng (HASECO), công ty cổ phần chứng khoán Kim Long (KLS).

5. Phương pháp nghiên cứu

Để phục vụ cho việc tìm hiểu và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, luận văn được xây dựng trên cơ sở thu thập và phân tích số liệu của một số công ty chứng khoán điển hình trên thị trường. Trong đó, các phương pháp nghiên cứu không thể thiếu trong quá trình phân tích và hoàn thành đề tài là:

- Phương pháp thu thập - tổng hợp số liệu;

- Phương pháp so sánh;

- Phương pháp liên hệ;

- Phương pháp thống kê.

6. Kết cấu luận văn

Bài luận văn của em có kết cấu gồm 3 phần như sau:

Chương I. Khái quát chung về hoạt động của các công ty chứng khoán

Chương II. Thực trạng hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán Việt

Nam hiện nay

Chương III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các

công ty chứng khoán Việt Nam

Do những hạn chế về kiến thức thực tế cũng như những khó khăn trong việc thu thập số liệu nên bài khóa luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự chỉ bảo, đóng góp từ phía các thầy cô và các bạn để hoàn thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu của mình.

CHƯƠNG I.‌‌

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN


I. Vài nét về thị trường chứng khoán

1. Nguồn gốc hình thành của thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ những sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15, ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị trường”. Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges Bỉ, tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một chữ tiếng Pháp là “Bourse” tức là “mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “Sở giao dịch”. Vào năm 1547, thành phố ở Bruges Bỉ mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị cát lấp nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers Bỉ. Ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ 16 một quan chức đại thần của Anh Quốc đã đến quan sát và về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London- Anh, nơi mà sau này được gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức và Bắc Âu. Sự phát triển của thị trường ngày càng phát triển cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và với nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy theo tính tất yếu, nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khoán…Mỗi thị trường lại có các đặc tính riêng, thuận lợi cho việc giao dịch của người tham gia thị trường đó. Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành một cách tự phát cũng tương tự như vậy ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu

và Bắc Mỹ. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngay cả khi ở ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ở Mỹ cho đến năm 1921, khu chợ này được chuyển từ ngoài trời vào trong nhà, sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập.

Ngày nay, theo sự phát triển của công nghệ khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch ở các sở giao dịch chứng khoán cũng được cải tiến dần theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch. Các sở giao dịch đã dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử thay cho thủ công trước kia.

Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán thế giới trải qua một lịch sử phát triển thăng trầm. Vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới. Nhưng sau đó, mốc khủng hoảng đầu tiên của thị trường chứng khoán được đánh dấu bằng “ngày thứ năm đen tối ” tức ngày 29/10/1929. Ngày này đã làm cho thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật Bản khủng hoảng mất lòng tin. Cho tới chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, các thị trường chứng khoán mới hồi phục dần và phát triển mạnh. Năm 1987, một lần nữa thị trường chứng khoán thế giới lại điên đảo với “ngày thứ hai đen tối” do hệ thống thanh toán kém cỏi đã không đảm đương được yêu cầu của giao dịch. Giá chứng khoán sụt giảm ghê gớm, công chúng đầu tư mất lòng tin và một loạt các phản ứng dây chuyền khác đã chứng minh hậu quả của cuộc khủng hoảng lần này còn nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Theo quy luật tự nhiên, sau gần hai năm mất lòng tin, thị trường chứng khoán thế giới lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển cho đến ngày nay. Cứ mỗi lần khủng hoảng như vậy, giá chứng khoán của tất cả các thị trường chứng khoán trên thế giới đều sụt giảm trầm trọng. Tuy ở mỗi khu vực và mỗi nước mức độ ảnh hưởng là khác nhau, song tất cả các cuộc khủng hoảng đều gây ra sự ngừng trệ cho thị trường chứng khoán toàn cầu và tất nhiên ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế mỗi nước. Cho đến nay, trên thế giới đã có khoảng trên 160 sở giao dịch chứng khoán, phân tán khắp các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước ở khu vực

Đông Âu như Balan, Hunggari, Séc, Nga… và các nước Châu Á khác như Trung Quốc vào những năm 1980 - đầu năm 1990.

Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới cho thấy thời gian đầu, thị trường hình thành một cách tự phát, đối tượng tham gia chủ yếu là các nhà đầu cơ, dần dần về sau mới có sự tham gia ngày càng đông đảo của công chúng. Khi thị trường bắt đầu xuất hiện sự trục trặc và bất ổn, chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách thành lập các cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi của công chúng đầu tư và sau đó dần dần hệ thống pháp lý cũng bắt đầu được ban hành.

Kinh nghiệm đối với những thị trường mới hình thành về sau này cho thấy, thị trường sau khi thiết lập chỉ có thể hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng nếu có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước. Điển hình như một số thị trường chứng khoán có sự trục trặc ngay từ ban đầu như thị trường chứng khoán Thái Lan, Inđônêsia. Các thị trường này hoạt động trì trệ trong một thời gian dài do thiếu hàng hoá và không được quan tâm đúng mức. Thị trường chứng khoán Philippine cũng là một ví dụ tương tự. Thị trường này hoạt động kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của sở giao dịch chứng khoán Makita và Manila. Thị trường chứng khoán Balan, Hungari cũng gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp…

Có thể nói, thị trường chứng khoán là một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển đang cần thu hút luồng vốn lớn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.

2. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

2.1. Tổ chức phát hành

Tổ chức phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành chính là người cung cấp các chứng khoán và các công cụ thị trường chứng khoán khác ra thị trường. Tổ chức phát hành bao gồm:

Chính phủ và chính quyền địa phương: là nhà phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu công trình, trái phiếu chính quyền địa phương.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 07/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí