Dự Báo Tốc Độ Tăng Dân Số, Gdp Và Cpi Theo Các Kịch Bản Đến 2020 Trung Bình Theo Các Giai Đoạn, %.



Các kịch bản kinh tế diễn ra với giả thiết kinh tế thế giới tăng trưởng ổn định, không có quá nhiều biến động chính trị - xã hội xảy ra; tiến trình cải cách kinh tế và hội nhập trong nước tiếp tục được thúc đẩy. Khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2014-2015 nhiều khả năng được cải thiện. Ở cả hai kịch bản cao và thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2020 đều được dự báo sẽ tăng hơn con số tương ứng giai đoạn 2011-2015. Ổn định vĩ mô tiếp tục được duy trì, lạm phát ở mức thấp. Lạm phát trong cả hai kịch bản giai đoạn 2016-2020 đều thấp hơn giai đoạn trước đó, đặc biệt, trong kịch bản cao, tốc độ tăng lạm phát còn thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Khác biệt giữa các kịch bản phụ thuộc vào việc đẩy mạnh cải cách kinh tế và khả năng tận dụng cơ hội hội nhập quốc tế của nển kinh tế Việt Nam. Ở cả 2 kịch bản, vốn đầu tư giai đoạn 2014-2020 đều được dự báo sẽ khả quan hơn cả từ nguồn trong nước lẫn nguồn nước ngoài. Kịch bản thấp diễn ra nếu nền kinh tế không đẩy nhanh được tốc độ thực hiện tiến trình tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, khi đó lượng vốn tuy dồi dào hơn nhưng hiệu quả sử dụng vốn thấp gây sức ép lạm phát và làm nền kinh tế khó thoát khỏi bất ổn tiếp theo trong trung hạn.

Tuy nhiên, ở kịch bản tăng trưởng cao, tiến trình tái cấu trúc và chuyển đổi mô hình tăng trưởng được thúc đẩy làm tăng khả năng hấp thu vốn, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn, đồng thời giảm được sức ép lạm phát tạo tiền đề phát triển nền kinh tế bền vững.

Bảng 3.2 Dự báo tốc độ tăng dân số, GDP và CPI theo các kịch bản đến 2020 trung bình theo các giai đoạn, %.


Dân số

Kịch bản thấp

Kịch bản cao

CPI

GDP

CPI

GDP

2016-2020

0,98

6,96

6,62

7,10

7,23

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả hoạt động cho Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - 8

(Nguồn: Dự báo một số chỉ tiêu kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2014-2020, NCSEIF, tháng 2/2014)

3.1.2. Dự báo thị trường mua bán nợ Việt Nam đến năm 2020

- Kịch bản tốt: Điểm nghẽn nợ xấu sẽ được xử lý, dòng tiền trong nền kinh tế



được khơi thông. Với cam kết cuối năm 2015 đưa nợ xấu về mức dưới 3%, xử lý nợ xấu đang được NHNN nỗ lực tìm nhiều biện pháp thực hiện. Như vậy, giai đoạn 2016-2020 vấn đề nợ xấu sẽ không còn là vật cản hay “điểm nghẽn” kinh tế nữa. Số liệu nợ xấu được công khai rõ ràng, minh bạch. Do đó, thị trường mua bán nợ sẽ được hoàn thiện, các công ty mua bán nợ sẽ hoạt động dễ dàng và ổn định, không có những biến động đột biến về doanh số mua bán nợ.

- Kịch bản xấu: Nợ xấu vượt khỏi mốc 3% vào đầu năm 2016, và do diễn biến nền kinh tế thế giới bất lợi bởi giá dầu giảm, thị trường chứng khoán Trung Quốc lao dốc, dòng vốn chảy ra khỏi Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là DNNN, doanh nghiệp sản xuất gặp nhiều khó khăn, dẫn đến khả năng trả nợ kém, nợ xấu của hệ thống NHTM tăng lại. Theo kịch bản này, trong giai đoạn 2016-2020, vấn đề nợ xấu sẽ vẫn là một vấn đề đáng lưu tâm và cần phải giải quyết triệt để. Do đó, các công ty mua bán nợ càng phải hoạt động tích cực hơn, doanh số mua bán nợ có thể tăng đột biến.

Tuy nhiên, do nền kinh tế liên tục tăng trưởng, dư nợ tín dụng của nền kinh tế sẽ luôn tăng về giá trị nên tổng nợ xấu vẫn có khuynh hướng tăng về giá trị dù tỷ lệ nợ xấu có được khống chế dưới 3%. Do vậy, dù quan điểm của tác giả chọn hướng kịch bản tốt để dự báo tình hình thị trường mua bán nợ đến năm 2020, nhưng công ty Mua bán nợ Việt Nam, VAMC cùng 20 công ty mua bán nợ hiện hữu vẫn có một thị trường rất lớn để phát triển.

3.2. Quan điểm và mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường đến năm 2020

của Đảng Cộng sản Việt Nam và ý nghĩa định hướng cho hoạt động của DATC

3.2.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường đến năm 2020

của Đảng Cộng sản Việt Nam

Theo Dự thảo văn kiện đại hội XII, mục tiêu đến năm 2020 của Việt Nam là:

- Phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và thị trường; bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với



phát triển văn hoá, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

- Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế, chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả các loại thị trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, phân bổ nguồn lực cho sản xuất kinh doanh và quản lý giá phải theo cơ chế thị trường. Đồng thời, sử dụng các nguồn lực của Nhà nước, các công cụ điều tiết, chính sách phân phối, phân phối lại để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo, từng bước nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

- Phương hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp:

Thể chế hoá quyền tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người dân theo quy định của pháp luật. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Bảo đảm quyền quản lý, thu lợi của Nhà nước đối với tài sản công và quyền bình đẳng trong việc tiếp cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Nâng cao năng lực của các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.

Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong



sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.

Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh cổ phần hoá, bán vốn mà Nhà nước không cần nắm giữ, bao gồm cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; hoàn thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vô hình (tài sản trí tuệ, thương hiệu,...) trong cổ phần hoá theo nguyên tắc thị trường. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh với nhiệm vụ chính trị, công ích và nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ. Đồng thời với quá trình hoàn thiện thể chế, cần có sự chỉ đạo quyết liệt hơn trong tổ chức thực hiện.

Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm



soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực theo quy

định của pháp luật.

- Phương hướng phát triển đồng bộ yếu tố thị trường và các loại thị trường:

Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hoá, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách và người nghèo. Không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá. Hoàn thiện pháp luật về phí, lệ phí; rà soát, chuyển đổi chính sách phí, lệ phí đối với một số dịch vụ công sang áp dụng chế độ giá dịch vụ. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của người tiêu dùng, các hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế. Tiếp tục phát triển đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường.

- Phương hướng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội:

Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện của đội ngũ cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nâng cao năng lực và hiệu quả công tác tham mưu về kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành.

Vấn đề "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo" đã được thống nhất nêu rõ trong Cương lĩnh và Hiến pháp. Trong khi khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, cũng xác định: "trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo". Kinh tế nhà nước gồm nguồn lực nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, cũng như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường,



bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Trong Dự thảo Văn kiện đã nêu: Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Còn các nguồn lực nhà nước (tài nguyên, đất đai, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,...), cùng với các công cụ, cơ chế, chính sách được Nhà nước sử dụng để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tiễn ở nước ta, khi các nguồn lực của Nhà nước cùng với các cơ chế, chính sách tập trung vào lĩnh vực, địa bàn nào thì dẫn dắt, thúc đẩy sự phát triển ở lĩnh vực, địa bàn đó. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, và được cơ cấu lại như đã nêu ở trên.

3.2.2. Ý nghĩa định hướng đối với hoạt động của DATC:

- Thứ nhất, định hướng cho DATC trong việc tiếp tục tạo lập thị trường mua bán nợ hoạt động theo đúng cơ chế thị trường.

- Thứ hai, nguồn vốn chủ yếu của công ty mua bán nợ dùng để mua nợ xấu các tổ chức tín dụng được cung cấp bởi Chính phủ. Tuy nhiên trong điều kiện ngân sách khó khăn hiện nay công ty mua bán nợ cần hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn vốn từ ngân sách mà cần linh động trong việc thu xếp nguồn vốn hoạt động thông qua phát hành trái phiếu, mời gọi nhà đầu tư nước ngoài cũng như các hình thức khác nếu phù hợp và đẩy nhanh quá trình xử lý trong mỗi khoản nợ xấu mà công ty mua bán nợ tham gia.

- Thứ ba, việc xử lý nợ xấu cần được mua bán theo cơ chế thị trường tức là công ty mua bán nợ cần định giá các khoản nợ theo giá thị trường, thực hiện minh bạch hóa thông tin cũng như thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển.

- Cuối cùng, công ty mua bán nợ cần mua bán nợ có lựa chọn. Việc lựa chọn ưu tiên những khoản nợ xấu để xử lý cần xem xét trên khuôn khổ rộng lớn tức là tác động ảnh hưởng của lĩnh vực bị nợ xấu đến nền kinh tế cũng như đời sống xã



hội và trên cơ sở phù hợp nguồn lực hiện có của công ty mua bán nợ tại thời điểm tiếp nhận xử lý để đảm bảo an toàn vốn và đạt hiệu quả quá trình xử lý.

Như vậy, phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động cho DATC sẽ bao gồm: Về hoạt động nghiệp vụ: Tiếp tục tăng cường mua nợ xấu theo chỉ tiêu kế hoạch do Chính phủ giao, tập trung xử lý các khoản nợ xấu đã mua để không biến

DATC thành một kho nợ xấu không có khả năng xử lý.

Về củng cố nguồn lực: Tiếp tục tăng cường nguồn nhân lực có chất lượng tốt

và năng lực tài chính cho DATC để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ được giao.

Về hành lang pháp lý: Tập trung nghiên cứu, đề xuất ý kiến để các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật nhằm củng cố quyền năng của DATC trong việc xử lý triệt để nợ xấu.

3.3. Mục tiêu hoạt động của DATC đến năm 2020:

Thứ nhất, DATC tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động mua, bán, xử lý nợ để hỗ trợ các doanh nghiệp và hệ thống Ngân hàng thương mại đẩy nhanh xử lý nợ xấu trong nền kinh tế, góp phần hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ có tổ chức và thúc đẩy thị trường vốn, thị trường chứng khoán phát triển; đồng thời qua đó làm lành mạnh hóa tình hình tài chính các doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu, chuyển đổi cổ phần các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước theo chủ trương của Đảng và Chính phủ.

Thứ hai, đẩy mạnh hoạt động tiếp nhận, xử lý nợ và tài sản loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp khi sắp xếp, chuyển đổi cổ phần doanh nghiệp nhà nước, qua đó giúp các doanh nghiệp tập trung hoàn thành công tác chuyển đổi, sớm ổn định sản xuất kinh doanh; đồng thời tận thu cho ngân sách nhà nước qua việc xử lý nợ và tài sản đã phân loại, tiếp nhận từ các doanh nghiệp.

Thứ ba, trong giai đoạn 2015- 2020, các chỉ tiêu cơ bản như: Doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách Nhà nước, doanh số mua nợ, số lượng các doanh nghiệp tái cơ cấu chuyển đổi thông qua hoạt động mua bán nợ... tăng trưởng hàng năm từ 10 đến 15%.



3.4. Các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho DATC

3.4.1. Giải pháp về chính sách, khung pháp lý:

Cơ sở khoa học của giải pháp

Hành lang pháp lý tại quốc gia là một trong những yếu tố quan trọng có tính chất quyết định đến thành công hay thất bại của một công ty mua bán nợ trong việc đạt được mục tiêu giải quyết nợ xấu. Nếu không có được một hệ thống văn bản pháp lý làm cơ sở cho các hoạt động của công ty mua bán nợ thì bản thân công ty mua bán nợ cũng phải đối diện với những khó khăn mà các ngân hàng đã gặp phải khi tiến hành thu hồi nợ xấu. Để có thể giải quyết triệt để nợ xấu, DATC cần được trao một số quyền đặc biệt để có thể xử lý, mua lại nợ xấu, cơ cấu lại các khoản nợ vay (có thể chia nhỏ hay gộp lại) để đầu tư sinh lợi.

Hiện ngành nghề kinh doanh của công ty mua bán nợ Việt Nam liên quan đến nợ và tài sản tồn đọng của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, các ngành nghề của doanh nghiệp được đơn vị này thực hiện tái cơ cấu chưa có hướng dẫn rõ ràng. Điều này khiến DATC gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng phương án mua nợ và khai thác tài sản có được trong quá trình hoạt động.

Tuy nhiên, trong danh mục ngành kinh tế quốc dân do Tổng cục Thống kê ban hành và các ngành nghề đăng ký kinh doanh của bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa có lĩnh vực mua, bán nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp. Đây là ngành nghề kinh doanh mới, đặc thù, rủi ro nên việc áp dụng gặp nhiều vướng mắc, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động mua bán nợ, tái cơ cấu doanh nghiệp của DATC. Cụ thể như sau khi hoàn thành tái cơ cấu, các doanh nghiệp tái cơ cấu được theo dõi trong danh mục đầu tư ra ngoài của DATC, việc xem xét đánh giá hoạt động đầu tư ngoài ngành thường căn cứ vào ngành nghề của doanh nghiệp có vốn đầu tư. Do đó, nếu doanh nghiệp tái cơ cấu hoạt động kinh doanh bất động sản, tài chính ... DATC sẽ bị đánh giá là đầu tư trái ngành.

Ngoài ra, trong quá trình DATC mua nợ có những khoản nợ có tài sản bảo đảm bằng giá trị quyền sử dụng đất, hoặc sau khi mua cùng với việc tái cơ cấu lại khoản nợ, DATC nhận giá trị quyền sử dụng đất thay cho khoản nợ của khách nợ.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 08/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí