Hoạt Động Của Hướng Dẫn Viên Du Lịch Trong Doanh Nghiệp Lữ Hành


dịch vụ trong đó có DNLH được chia thành doanh nghiệp có quy mô lớn, quy mô vừa, quy mô nhỏ và quy mô siêu nhỏ.

- Phân loại theo phạm vi hoạt động của DNLH: Tại Việt Nam, theo Luật Du lịch (2017), quy định DNLH được phân theo phạm vi hoạt động bao gồm hai loại là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế. doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa là doanh nghiệp có trách nhiệm xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch nội địa, nhận ủy thác để thực hiện dịch vụ, chương trình du lịch cho khách nước ngoài đã được các DNLH quốc tế đưa vào Việt Nam. doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế là doanh nghiệp có trách nhiệm xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức các chương trình du lịch trọn gói hoặc từng phần theo yêu cầu của khách để trực tiếp thu hút khách đến Việt Nam và đưa công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú ở Việt Nam đi du lịch. Thực hiện các chương trình du lịch đã bán hoặc ký hợp đồng ủy thác từng phần, trọn gói cho các DNLH nội địa.

2.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của doanh nghiệp lữ hành

* Chức năng của doanh nghiệp lữ hành

Trên thế giới cũng có nhiều tài liệu nghiên cứu về chức năng của các công ty du lịch nói chung, đại diện có L.K Singh (2008), A.K.Bhatia (2012) đề cập đến chức năng của DNLH đó là cung cấp thông tin, lập kế hoạch chương trình, tạo các tiện ích du lịch, lên kế hoạch và mức giá chương trình du lịch, cung cấp ngoại tệ, bảo hiểm. Tại Việt Nam, các tác giả Nguyễn Văn Mạnh và Phạm Hồng Chương (2009), Nguyễn Doãn Thị Liễu cùng cộng sự (2011), Trần Thị Bích Hằng (2020) đều cho rằng DNLH có các chức năng sau:

- Chức năng cung cấp thông tin

Doanh nghiệp lữ hành cung cấp thông tin cho khách du lịch, nhà kinh doanh du lịch, điểm đến du lịch. Hay nói cách khác, DNLH cung cấp thông tin cho cả người tiêu dùng du lịch và người cung cấp sản phẩm du lịch.

- Chức năng sản xuất

Doanh nghiệp lữ hành phải thực hiện các công việc tổ chức nghiên cứu thị trường và tổ chức sản xuất. Tổ chức nghiên cứu thị trường bao gồm nghiên cứu thị trường cầu và thị trường cung du lịch. Tổ chức sản xuất bao gồm việc sắp đặt trước các dịch vụ hoặc liên kết các dịch vụ đơn lẻ với nhau thành một chương trình du lịch hoàn chỉnh. Sản phẩm của các DNLH chủ yếu là các chương trình du lịch trọn gói, vì vậy để đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, DNLH phải thực hiện chức năng sản xuất trên cơ sở ghép nối các dịch vụ của nhà cung cấp đơn lẻ thành chương trình du lịch trọn gói và tổng hợp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 244 trang tài liệu này.


- Chức năng tổ chức thực hiện

Nâng cao chất lượng hướng dẫn viên du lịch của các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội - 7

Doanh nghiệp lữ hành thực hiện khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh lữ hành, bao gồm thực hiện vận chuyển khách theo điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng, thực hiện các hoạt động hướng dẫn tham quan, thực hiện việc kiểm tra, giám sát các dịch vụ của nhà cung cấp khác trong quá trình thực hiện chương trình. Mặt khác, thực hiện hoạt động làm gia tăng giá trị sử dụng và giá trị của chương trình du lịch thông qua lao động của HDVDL. Chức năng này của DNLH thể hiện qua việc doanh nghiệp tổ chức các chương trình phục vụ khách theo hợp đồng đã được thỏa thuận, ký kết. Tổ chức thực hiện còn bao gồm tổ chức cho khách lẻ thành từng nhóm, định hướng và giúp đỡ khách trong quá trình tiêu dùng du lịch.

* Nhiệm vụ của doanh nghiệp lữ hành

Từ các chức năng trên, DNLH thực hiện các nhiệm vụ quan trọng là tổ chức các hoạt động trung gian và tổ chức các chương trình du lịch trọn gói, trực tiếp tổ chức các chương trình du lịch trọn gói cho khách:

- Tổ chức các hoạt động trung gian, bán và tiêu thụ các sản phẩm của nhà cung cấp dịch vụ du lịch.

- Tổ chức các chương trình du lịch trọn gói, các chương trình này nhằm liên kết các sản phẩm du lịch như vận chuyển, lưu trú, vui chơi giải trí... thành một sản phẩm thống nhất hoàn hảo đáp ứng mọi nhu cầu của khách du lịch.

- Tổ chức cung cấp các dịch vụ đơn lẻ cho khách trên hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có để đảm bảo phục vụ tất cả các nhu cầu của khách từ khâu đầu tiên tới khâu cuối cùng.

2.1.2. Hướng dẫn viên du lịch

2.1.2.1. Khái niệm hướng dẫn viên du lịch

Hiện nay đã có nhiều định nghĩa, nhiều khái niệm về HDVDL được đưa ra. Trải qua thực tế tồn tại và phát triển của ngành du lịch, khái niệm về HDVDL ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với bản chất công việc của HDVDL. HDVDL có thể hiểu là người chịu trách nhiệm chỉ đạo, dẫn dắt du khách trong quá trình tham quan, du lịch; HDVDL là người đi cùng với du khách, khách du lịch cá nhân hoặc nhóm khách du lịch trong kỳ nghỉ của họ, giải thích các di tích lịch sử, văn hóa và tự nhiên theo cách giải trí trong ngôn ngữ của du khách, giải thích các khía cạnh của văn hóa địa phương và giúp họ hiểu giá trị của nền văn hóa này và tạo ra hình ảnh thuận lợi về điểm đến (Weiler và Balck, 2015; Lin và cộng sự, 2018); HDVDL là công dân địa phương giải thích văn hóa và các địa điểm di sản thiên nhiên cho khách du lịch và khách tham quan bằng ngôn ngữ của họ, cũng như được cơ quan có thẩm quyền cấp phép hướng dẫn khách du lịch có thu phí, tiền công (Cetin và


Yarcan, 2017).

Tại Việt Nam, tác giả Đinh Trung Kiên (2000) và Bùi Thanh Thủy (2009) đều đưa ra định nghĩa HDVDL. Điểm chung của hai định nghĩa này là gắn HDVDL với tổ chức kinh doanh du lịch để thay mặt doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ đáp ứng các nhu cầu được thỏa thuận của khách du lịch và giải quyết các vấn đề phát sinh trong phạm vi và khả năng của mình. Tác giả Bùi Thanh Thủy có nhấn mạnh hơn về vai trò của HDVDL là tạo ra những ấn tượng tích cực cho khách du lịch. Theo Luật Du lịch Việt Nam (2017), HDVDL là người được cấp thẻ để hành nghề hướng dẫn du lịch. Tùy theo luật pháp của mỗi quốc gia, điều kiện công nhận HDVDL được quy định cụ thể. Như vậy, để được gọi là HDVDL thì người lao động phải có thẻ nghề hướng dẫn du lịch. Điểm chung của các tổ chức, các nhà nghiên cứu thể hiện trong định nghĩa HDVDL là xác định nội dung công việc mà người hướng dẫn du lịch phải thực hiện như tổ chức tham quan, thuyết minh hướng dẫn, tổ chức các hoạt động phục vụ khách du lịch; phải có kiến thức tổng quát và chuyên sâu về các điểm tham quan trong chương trình du lịch; có kỹ năng chuyển tải thông tin để tạo sự hứng thú, tạo sự tin tưởng cho khách du lịch; và có phẩm chất đạo đức. HDVDL là người sử dụng ngôn ngữ đã lựa chọn để giới thiệu và giải thích cho du khách các di sản văn hóa cũng như thiên nhiên của một vùng cụ thể được các cơ quan liên quan công nhận. HDVDL là người thực hiện các điều khoản được ký kết trong hợp đồng cung ứng dịch vụ lữ hành, giúp DNLH thu được lợi nhuận kinh tế và giúp du khách hiểu biết

thêm về điểm đến (điểm tham quan) thông qua chuyến đi và bài thuyết minh.

Từ những khái niệm trên, trong phạm vi tiếp cận của đề tài luận án có thể hiểu: Hướng dẫn viên du lịch là những người có chuyên môn được các cơ quan có thẩm quyền công nhận, làm việc cho các tổ chức kinh doanh du lịch với nhiệm vụ thực hiện hướng dẫn khách du lịch trong các chuyến thăm quan du lịch hay tại các điểm du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu được thỏa thuận của khách trong thời gian nhất định và thay mặt tổ chức kinh doanh du lịch giải quyết những phát sinh trong chuyến du lịch với phạm vi và khả năng của mình.

2.1.2.2. Phân loại hướng dẫn viên du lịch

Hướng dẫn viên du lịch có thể phân loại dựa vào nhiều căn cứ khác nhau. Trên thực tế, HDVDL do sự không giống nhau về phạm vi nghiệp vụ, nội dung nghề nghiệp, ngôn ngữ sử dụng khác nhau và đối tượng phục vụ, tính chất nghề nghiệp, phương thức nghề nghiệp cũng không giống nhau nên căn cứ vào tình hình đó, có thể phân loại như sau:

- Phân loại theo đối tượng khách:


Theo Luật Du lịch (2017) quy định có ba đối tượng tham gia hướng dẫn du lịch, đó là: (1) HDVDL nội địa (phục vụ khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam trong phạm vi toàn quốc); (2) HDVDL quốc tế (phục vụ khách du lịch nội địa, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam trong phạm vi toàn quốc và đưa khách du lịch ra nước ngoài); (3) HDVDL tại điểm (phục vụ khách du lịch trong phạm vi khu du lịch, điểm du lịch).

- Phân loại theo tính chất nghề nghiệp:

+ Hướng dẫn viên chuyên nghiệp, hướng dẫn viên cơ hữu: Là những HDVDL lấy công việc hướng dẫn du lịch làm nghề nghiệp sinh sống, là lực lượng lâu dài trong ngành lữ hành, du lịch. Họ được đào tạo chính quy từ các khoa du lịch và hướng dẫn của các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp. Họ hành nghề với sự cho phép của pháp luật thông qua thẻ HDV và có hợp đồng lao động với các DN, CTLH. Họ thường có kinh nghiệm trong công tác chuyên môn và kiến thức sâu rộng. Đây là lực lượng lao động HDVDL chính của các DNLH.

+ Hướng dẫn viên không chuyên, cộng tác viên: Là những HDV không chuyên, các cộng tác viên làm việc cho các DNLH. Họ không làm việc chính thức cho một DNLH mà có thể làm việc cho nhiều DNLH khác nhau. Thu nhập chính của họ có thể thuộc về các lĩnh vực khác, hoặc là sinh viên với công việc chính là học tập. Họ thường là những người thông thạo ngoại ngữ, hiểu biết và có kiến thức về các lĩnh vực như: kinh tế, địa lý, xã hội, văn hóa, lịch sử, kiến trúc,… Do đó họ sử dụng những thời gian rảnh rỗi của họ để đi hướng dẫn du lịch nhằm lấy thêm thu nhập hoặc thỏa mãn sở thích. HDV không chuyên, cộng tác viên thường được điều động vào những mùa cao điểm trong du lịch, và công việc của họ cũng mang tính thời vụ và ít ổn định hơn HDVDL chuyên nghiệp.

- Theo tính chất tuyến điểm:

+ Hướng dẫn viên toàn tuyến: Là những HDV có nhiệm vụ hướng dẫn và đi kèm với khách du lịch trong suốt cả cuộc hành trình du lịch, đảm bảo việc thực hiện và chịu trách nhiệm với đoàn khách du lịch trong toàn bộ chương trình du lịch. Thông thường đây là các HDVDL giàu kinh nghiệm, có khả năng giao tiếp và xử lý tình huống tốt, có trình độ kiến thức sâu rộng. Đặc điểm của HDVDL toàn tuyến là thời gian tiếp xúc với khách là lớn, cần có sự hiểu biết tổng hợp, và tại các điểm đến thường HDVDL toàn tuyến sẽ trao nhiệm vụ hướng dẫn cho các HDV tại điểm, còn HDVDL toàn tuyến sẽ chỉ lo việc tổ chức và quản lý đoàn tại các điểm du lịch này.

+ Hướng dẫn viên theo chặng: Đối với một số chương trình du lịch đặc biệt, ở đó khoảng cách giữa các điểm đến khá dài và phức tạp cũng như có sự khác biệt lớn về văn hóa, xã hội, hoặc công ty có phạm vi hoạt động hẹp, dẫn đến việc đi lại


của HDV có chi phí quá lớn thì DNLH sẽ chỉ định một số HDVDL có nhiệm vụ hướng dẫn du khách trong suốt chương trình. Trong đó mỗi HDVDL sẽ có nhiệm vụ hướng dẫn và thuyết minh trong một khu vực nhất định, hay là một đoạn của chương trình du lịch.

+ Hướng dẫn viên tại điểm: Có thể là các HDVDL chuyên nghiệp hoặc không chuyên, nhưng phạm vi hoạt động của họ thường giới hạn tại các điểm du lịch cố định. Ví dụ như: HDVDL tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, HDV tại các lăng tẩm ở Huế, hoặc Phong Nha – Kẻ Bàng,… HDV tại điểm thường là những người sinh ra và từng sinh sống tại địa phương nơi có điểm du lịch, họ rất am hiểu và tường tận về điểm du lịch cũng như có sự trải nghiệm thực tế tại địa phương đó.

Trong phạm vi của luận án này, nghiên cứu sinh sử dụng cách phân loại theo tính chất nghề nghiệp trong DN bao gồm HDVDL cơ hữu (HDVDL theo biên chế) và HDVDL là cộng tác viên (HDVDL theo vụ việc, HDVDL tự do).

Theo Luật Du lịch (2017), HDVDL cơ hữu hay cộng tác viên chỉ được hành nghề khi đáp ứng cả 3 điều kiện sau: (1) Có thẻ HDVDL du lịch; (2) Có hợp đồng lao động với DN kinh doanh dịch vụ lữ hành, DN cung cấp dịch vụ hướng dẫn du lịch hoặc là hội viên của tổ chức xã hội - nghề nghiệp về hướng dẫn du lịch; (3) Có hợp đồng hướng dẫn với DN kinh doanh dịch vụ lữ hành hoặc văn bản phân công hướng dẫn theo chương trình du lịch.

2.1.2.3. Đặc điểm lao động hướng dẫn viên du lịch

Hướng dẫn viên du lịch là loại lao động trong ngành du lịch nên nó mang đầy đủ các đặc điểm của lao động trong ngành du lịch nói chung như: tính phi sản xuất vật chất; tính chất phức tạp; tính chất thời điểm, thời vụ; tính đa dạng và chuyên môn hóa cao; tính sẵn sàng và đón tiếp phục vụ khách hàng. Ngoài ra, HDVDL là loại lao động đặc biệt có những đặc điểm riêng dưới đây:

- Công việc hướng dẫn có tính độc lập cao. HDVDL sau khi tiếp nhận sự uỷ thác của công ty du lịch, trong quá trình dẫn đoàn đi luôn luôn phải làm việc một mình. Họ độc lập tuyên truyền, tự chấp hành chính sách quốc gia và căn cứ vào kế hoạch để triển khai công tác tiếp đón và phục vụ du khách; độc lập dẫn đoàn đi tham quan du lịch. Đặc biệt là khi phát sinh vấn đề, HDVDL cần tư duy nhanh nhạy, tiến hành xử lý một cách độc lập, hợp tình hợp lý. Đây có thể coi là một hình thức lao động vô cùng vất vả.

- Thời gian lao động của hướng dẫn viên du lịch rất khó định mức. Không như một số nghề nghiệp hướng dẫn khác, nghề HDVDL có thời gian không cố định gồm cả thời gian chuẩn bị đón khách, cùng đi với khách trong chuyến du lịch, tiễn khách, giúp đỡ khách những phát sinh… Do những hoàn cảnh cụ thể tác động, HDVDL phải thực hiện công việc vào những khoảng thời gian bất ngờ, không thể


cứng nhắc trong việc xác định thời gian lao động vì ngay cả khi tiễn khách xong thì HDVDL vẫn phải tiếp tục công việc của đoàn khách để lại.

- Khối lượng công việc của hướng dẫn viên du lịch rất đa dạng và phức tạp. Trước tiên, HDVDL phải bằng nhiều phương pháp khác nhau để nâng cao hiểu biết, sử dụng các phương tiện phụ trợ thành thạo, nắm vững yêu cầu nghiệp vụ trong quá trình hướng dẫn khách du lịch. Họ phải học và không ngừng hoàn thiện kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ từ những chuyến du lịch quen thuộc; nâng cao khả năng hướng dẫn, nghệ thuật hướng dẫn, chuẩn bị tuyến thăm quan mới. Họ trực tiếp hướng dẫn khách và giới thiệu cho khách du lịch trên suốt tuyến hay tại điểm du lịch, giúp đỡ khách trong một số hoạt động và thao tác cụ thể về xuất, nhập cảnh; hướng dẫn mua sắm hay xử lý những tình huống bất thường trong chuyến du lịch của khách. Có thể nói, khối lượng công việc của HDVDL là rất lớn, đa dạng và phong phú.

- Cường độ lao động lao động của hướng dẫn viên du lịch cao. Trong ngành du lịch nói chung không cao nhưng cường độ lao động của HDVDL thì ngược lại, khá cao và căng thẳng. Trong suốt quá trình thực hiện chương trình du lịch, HDVDL luôn phải tự đặt mình vào trạng thái luôn luôn sẵn sàng phục vụ bất cứ lúc nào, với khối lượng công việc lớn và thời gian không định mức (thậm chí cả ban đêm khi có việc bất thường, HDVDL cũng phải phục vụ khách chẳng hạn khách bị ốm hoặc khách phàn nàn muốn đổi phòng).

- Công việc của hướng dẫn viên du lịch có tính chất đơn điệu. Công việc của HDVDL đơn điệu và hay lặp lại các thao tác cụ thể, các lộ trình với các đối tượng thăm quan quen thuộc dễ gây nhàm chán. Nội dung hướng dẫn không phải dễ dàng thay đổi nhất là các thông tin chủ yếu. Hơn nữa, do việc khai thác nguồn khác từ những thị trường quen thuộc nên một HDVDL của CTLH có thể chỉ chuyên phục vụ một loại khách du lịch trên một số tuyến, điểm du lịch nhất định. Vì vậy, sức ép tâm lý đối với HDVDL khá lớn, khả năng chán việc dễ xảy ra. Nhưng nghề nghiệp đòi hỏi HDVDL phải tiếp xúc thường xuyên với khách trong tư thế người phục vụ nhiệt tình, chu đáo, là người đại diện cho hãng lữ hành, cho ngành, thậm chí cho quốc gia, dân tộc. Do đó, tính chất công việc buộc HDVDL có sức chịu đựng cao về tâm lý, tức là giữ cho trạng thái tâm lý luôn ổn định.

2.1.2.4. Hoạt động của hướng dẫn viên du lịch trong doanh nghiệp lữ hành

Hướng dẫn du lịch là hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch (các CTLH hoặc các đơn vị có chức năng kinh doanh lữ hành), được thực hiện chủ yếu thông qua các HDVDL và những người có liên quan để đón tiếp, phục vụ, hướng dẫn khách du lịch thực hiện các dịch vụ theo chương trình được thỏa thuận và giúp


đỡ khách giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện chuyến du lịch, đảm bảo thực hiện những mong muốn, nguyện vọng của họ theo một chương trình du lịch cá nhân tự chọn hoặc tập thể đã được hoạch định trên cơ sở các thỏa thuận hợp đồng được ký kết.

Khái niệm HDVDL ở trên đã chỉ rõ những hoạt động hướng dẫn du lịch mà vai trò quan trọng nhất của HDVDL, những người thay mặt cho tổ chức kinh doanh du lịch thực hiện hợp đồng giữa đơn vị mình với khách du lịch.

Các hoạt động của HDVDL bao gồm nhiều mặt công tác và đòi hỏi về nghiệp vụ tuy mức độ không giống nhau, nhưng những hoạt động sau đây không thể thiếu:

- Trước hết là việc tổ chức đón và tiễn khách du lịch, sắp xếp nơi nghỉ ngơi lưu trú và ăn uống cho khách, tổ chức chuyến thăm quan du lịch tới những nơi tài nguyên du lịch được khai thác, sắp xếp các chương trình vui chơi giải trí, mua sắm cho khách du lịch. Hoạt động này có vai trò của các HDVDL và sự tham gia của các bộ phận chức năng liên quan. Hoạt động này của các HDVDL khác với những HDV của các nghề nghiệp khác (HDV tại các điểm di tích - lịch sử văn hóa, bảo tàng, HDV địa chất, HDV giao thông…).

- Hoạt động cung cấp thông tin cũng là một hoạt động bắt buộc nhằm giúp khách du lịch có được những hiểu biết cần thiết từ các quy định về xuất nhập cảnh, các thủ tục, tập quán, các quy định về hoạt động thăm quan, chương trình an ninh cho đến những thông tin về đất nước, con người, cảnh quan, các giá trị văn hóa - lịch sử, kinh tế - xã hội, các đối tượng thăm quan… theo mục đích chuyến du lịch của khách đã được thỏa thuận hay phát sinh trong chuyến đi du lịch. Hoạt động này được coi là hoạt động chủ yếu nhất của HDVDL, phục vụ đắc lực nhất cho nhu cầu của khách du lịch mà vì đó họ tiêu tiền và sử dụng thời gian rảnh rỗi.

- Hoạt động theo dõi, kiểm tra việc phục vụ khách du lịch của các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch gồm các dịch vụ cơ bản và dịch vụ bổ sung. Thông thường, việc phục vụ khách du lịch được thỏa thuận (thường bằng hợp đồng). Song việc kiểm tra sẽ đảm bảo cho khách được phục vụ đúng, đủ (cả số lượng và chất lượng, chủng loại) các dịch vụ như đã mua. Khách du lịch sẽ yên tâm và thoải mái hơn khi có sự theo dõi, kiểm tra của HDVDL hay nhân viên CTDL đảm nhiệm vai trò hướng dẫn.

Ngoài ra, HDVDL còn thực hiện việc làm cầu nối giữa các cơ sở kinh doanh du lịch với khách du lịch nhằm cung cấp những dịch vụ du lịch đúng với sở thích, tâm lý và túi tiền của du khách. Việc phối hợp hoạt động giữa các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch nếu có sự tham gia của HDVDL sẽ tạo thêm cơ sở thực tiễn cho việc thỏa mãn nhu cầu của khách một cách đầy đủ nhất.

2.1.2.5. Vai trò của hướng dẫn viên du lịch


Hoạt động hướng dẫn du lịch chủ yếu là hoạt động của HDVDL. Hoạt động hướng dẫn du lịch là loại hoạt động dịch vụ đặc trưng của dịch vụ du lịch và có vị trí quan trọng trong kinh doanh du lịch, đem lại lợi ích nhiều mặt cho cả tổ chức kinh doanh du lịch, khách du lịch và đất nước.

* Vai trò đối với đất nước

Hướng dẫn viên du lịch là người thay mặt, đại diện cho đất nước, hãng du lịch đón các đoàn khách từ các quốc gia trên thế giới đến du lịch. Họ là cầu nối góp phần tăng cường tình hữu nghị, sự hiểu biết giữa các dân tộc. Bởi ngay từ lúc đón tiếp đoàn, HDV là người để đoàn khách đánh giá, nhận định về đất nước, con người nơi mà họ đến. Đồng thời HDV còn là người phá tan những hoài nghi, những suy nghĩ không đúng, giúp du khách hiểu rõ, hiểu đúng về đất nước, con người của vùng đất ấy.

Đối với khách du lịch, HDVDL sẽ là người giúp cho du khách cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tài nguyên thiên nhiên, các giá trị văn hóa, tinh thần từ đó tăng thêm tình yêu đất nước, dân tộc. HDVDL là người có điều kiện theo dõi, thông báo và ngăn chặn những hành động vi phạm pháp luật đe dọa đất nước. Biết xây dựng và bảo vệ hình ảnh của đất nước với du khách. Trên thực tế không phải du khách nào cũng có cái nhìn đúng đắn về đất nước mà họ đến, bởi vậy họ có thể tiếp nhận những thông tin không đúng và không đầy đủ. Hơn nữa họ có thể tò mò về các vấn đề tế nhị như nhân quyền và chính trị. HDVDL bằng lý luận của mình xóa đi những quan điểm, nhìn nhận không đúng đắn về điểm đến du lịch.

Hướng dẫn viên du lịch thực hiện các chương trình du lịch, là người giới thiệu, hướng dẫn khách du lịch tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ hàng hóa khác trong khi họ đi du lịch mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước.

* Vai trò đối với công ty lữ hành

- Hướng dẫn viên là đại diện cho DNLH để phục vụ và thực hiện hợp đồng với khách du lịch. Có thể nói HDV chính là thương hiệu, là bộ mặt của DNLH trong con mắt của khách. Do đó vai trò của HDVDL là vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp nếu HDVDL phục vụ khách chuyên nghiệp, nhiệt tình, cuốn hút và làm cho khách có cảm tình, thì thương hiệu của DNLH đó sẽ in sâu vào tâm trí khách, và làm tăng uy tín của DN, và đa số khách sẽ tiếp tục quay trở lại sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp trong những lần sau, hoặc tham gia các chương trình khác của doanh nghiệp. Còn nếu ngược lại, HDV không để lại ấn tượng tốt cho du khách, thì doanh nghiệp sẽ là hình ảnh xấu trong mắt khách, và DNLH có thể sẽ mất đi những nguồn khách này trong những lần sau. Ngoài ra thì HDVDL còn thay mặt DNLH trực tiếp thực hiện các hợp đồng đã ký kết với khách du lịch. Việc đảm bảo thực hiện đúng, đủ, nghiêm túc các

Xem tất cả 244 trang.

Ngày đăng: 30/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí