Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa - 1


LUẬN VĂN:


Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa


1

Lời mở đầu


Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các hoạt động kinh tế đang ngày càng đa dạng, sôi động và đi kèm với nó là sự mở rộng của những giao dịch thương mại cả về hình thức cũng như về quy mô. Tuy nhiên, trong các giao dịch giữa các bên thường gặp khó khăn khi tìm hiểu thông tin về đối tác nên không thể có sự tin tưởng để thực hiện giao dịch, rủi ro do thông tin không cân xứng rất lớn. Nhưng điều này hoàn toàn có thể được khắc phục bằng cam kết bảo lãnh của ngân hàng. NH với uy tín của mình đứng ra cam kết cho bên thứ ba về việc khách hàng được bảo lãnh sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. NH sẽ có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo lãnh cho bên thứ ba nếu khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết của mình.

Bảo lãnh ngân hàng không chỉ đáp ứng được nhu cầu giảm rủi ro cho các bên trong giao dịch kinh tế mà trên thực tế nó còn mang lại nhiều lợi ích cho NH thực hiện bảo lãnh. Các NH sẽ thu được phí bảo lãnh đồng thời lại quảng cáo được hình ảnh của NH ra bên ngoài. NH có chất lượng bảo lãnh tốt sẽ tăng được sự tin tưởng cho khách hàng của mình và thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển. Vì vậy, các NH rất mong muốn nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh của mình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.

Qua một thời gian thực tập ở chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, em nhận thấy bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ được thực hiện khá phổ biến của chi nhánh. CN đã được rất nhiều khách hàng tín nhiệm và tìm đến khi có yêu cầu bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh của CN mang lại sự tin tưởng tuyệt đối cho đối tác và giúp các khách hàng nhanh chóng thực hiện được giao dịch. Cho đến nay chưa có một khách hàng nào được CN bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết của mình, điều đó càng làm tăng uy tín cho ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay các NHTM quốc doanh đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại cổ phần và các ngân hàng nước ngoài hùng mạnh. Trong hoàn cảnh đó, chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa thực sự vẫn chưa đạt tiêu chuẩn để giúp ngân hàng có thể cạnh tranh được với các đối thủ của mình.

Từ những hiểu biết, phân tích, đánh giá của mình, em đã quyết định chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp là: ”Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân

Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa - 1

hàng Công thương Đống Đa” nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị để hoạt động bảo lãnh của chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa có được chất lượng cao hơn.

Chuyên đề được nghiên cứu theo những mục tiêu là tìm hiểu những lý luận chung về chất lượng bảo lãnh của NHTM; căn cứ vào lý luận chung để phân tích, đánh giá về thực trạng chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa và đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng bảo lãnh của CN trong thời gian tới.


Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:

Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại

Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại


1.1.Bảo lãnh của Ngân hàng thương mại


1.1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại


1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một tổ chức ra đời và gắn liền với nền kinh tế hàng hóa. Đến hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, NH thực sự đã có điều kiện phát triển đến mức cao và phát huy được vai trò của mình, là động lực làm kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng trưởng vượt bậc. Nhưng nếu xem xét nguồn gốc hình thành NH, chúng ta thấy lúc đầu các NH chưa có được vị trí và vai trò của nó như bây giờ. Các NH đầu tiên trên thế giới xuất hiện từ trước công nguyên, ra đời do nhu cầu cần đổi tiền của các nhà buôn. NH giúp các nhà buôn đổi ngoại tệ lấy bản tệ và chiết khấu thương phiếu để có vốn kinh doanh. Nhiều nhà buôn thừa tiền có nhu cầu gửi tiền lại cho các NH để đảm bảo an toàn và phải trả cho NH một khoản phí lưu giữ. Trong quá trình gửi tiền và rút tiền đó, những người làm NH nhận thấy mình thường có dư tiền do nhu cầu gửi và rút không giống nhau. Ngược lại, những nhà buôn thiếu tiền buôn bán tạm thời lại có nhu cầu vay tiền ngân hàng. Do tiền không có tính ghi danh nên các NH đã nghĩ ra cách lấy số tiền dư đó đi cho vay để hưởng lãi. Sau này, khi hoạt động cho vay phát triển, các NH cần huy động nhiều tiền gửi nên đã bỏ khoản phí giữ tiền, và trả lãi cho các khoản tiền gửi để khuyến khích mọi người gửi tiền vào NH. Từ đó, NH thu hút tiền gửi và cho vay ra đời. Sự phát triển của thương mại thế giới đã kéo theo sự ra đời các phương thức thanh toán và tín dụng mới.

Đến thế kỷ XVIII hệ thống NH đã nhanh chóng phát triển thêm nhiều nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao như nghiệp vụ phát hành kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, thanh toán bù trừ, chuyển ngân, phát hành và thanh toán séc,…. Tuy nhiên, trong giai đoạn này lại xảy ra khủng hoảng tiền tệ khi các NH phát hành tiền giấy tràn lan. Do các chứng chỉ tiền gửi của NH có thể thay vàng làm phương tiện thanh toán trong lưu thông. Các NH thấy được vị trí đó nên đã tận dụng triệt để, gây ra sự hỗn loạn trong nền kinh tế do tiền giấy tràn lan mất kiểm soát.

Đến thế kỷ XX, hệ thống NH từ một cấp đã chuyển sang hệ thống hai cấp, có ngân hàng trung ương làm nhiệm vụ quản lý, kiểm soát hệ thống NHTM. Chỉ có

ngân hàng trung ương mới được phát hành tiền giấy. Chức năng phát hành tiền được tách riêng khỏi các NHTM, các NHTM trở thành một tổ chức trung gian tài chính đơn thuần. Hiện nay, NHTM đã phát triển rất nhiều nghiệp vụ NH hiện đại như ủy thác, bảo lãnh, đầu tư,…

Các NHTM đã trải qua quá trình phát triển lâu dài với nhiều sự thay đổi cả về bản chất và hình thức, vì vậy rất khó để định nghĩa một cách toàn diện và chính xác ngân hàng là gì. Dưới đây là hai trong rất nhiều các định nghĩa về NHTM đã được nêu ra, mỗi định nghĩa được tiếp cận trên một khía cạnh riêng của NHTM.

Trong nền kinh tế tư bản, các nhà tài chính thường định nghĩa NHTM trên phương diện các dịch vụ NHTM cung cấp. Theo đó, “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”

Ở Việt Nam, NHTM được định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu:”Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán.” (Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Như vậy, ở Việt Nam ngân hàng được hiểu theo nghĩa là một ngân hàng cổ điển với chức năng chủ yếu là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và trung gian thanh toán.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng đang ngày càng “lấn sân” sang lĩnh vực của các NHTM và trở nên giống với NHTM hơn. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể phân biệt NHTM với các tổ chức tài chính khác ở chỗ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền gửi, đặc biệt được huy động tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn, còn các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác chỉ được phép huy động tiền gửi dài hạn.

1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại

Hoạt động huy động vốn

Vốn là yếu tố sống còn của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ vay, tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu vốn khác nhau và phương thức huy động vốn cũng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường nợ

vay không chiếm phần lớn, phương thức huy động nợ vay chủ yếu là vay ngân hàng và phát hành trái phiếu. Nhưng NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, với hoạt động chủ yếu là huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội rồi đem số vốn này đi kinh doanh qua các hình thức cho vay, đầu tư,…, nên có những đặc trưng riêng về vốn và phương thức huy động vốn.

Nguồn vốn của NHTM được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn nợ:

Vốn chủ sở hữu: là vốn của chủ ngân hàng. Vốn chủ sở hữu có thể được sử dụng lâu dài nên là nguồn hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu được phân loại như sau:

- Nguồn vốn hình thành ban đầu: Mỗi loại hình NHTM sẽ có nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. NHTM thuộc sở hữu nhà nước có vốn ban đầu là vốn nhà nước. NHTM cổ phần có vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp thông qua đóng cổ phần. NHTM liên doanh có vốn ban đầu do các bên liên doanh đóng góp.

- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, vốn của chủ có thể được gia tăng từ nhiều nguồn khác nhau như nguồn từ lợi nhuận giữ lại hoặc nguồn từ phát hành thêm cổ phiếu.

- Các quỹ:

Hàng năm, các ngân hàng phải trích lập rất nhiều quỹ khác nhau từ thu nhập của mình. Các quỹ này sẽ được tích lũy qua các năm và có mục đích bù đắp những tổn thất có thể xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát, quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và phần chênh lệch thị giá – mệnh giá của cổ phiếu khi phát hành mới. Ngoài ra còn có các quỹ thông thường như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,…

Vốn nợ: là loại vốn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn của các NHTM. Vốn nợ được chia thành những loại sau:

- Tiền gửi của khách hàng:

Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của các NHTM. Các NHTM khi bắt đầu hoạt động đều thực hiện nghiệp vụ đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi cho các khách hàng để huy động tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp và dân cư. Tiền gửi là nguồn vốn luôn chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quyết định trong hoạt động của NHTM. Vì vậy, các NHTM luôn cạnh tranh với nhau bằng cách tăng lãi suất, bổ sung các

dịch vụ kèm theo, khuyến mãi trong dịch vụ gửi tiền để gia tăng doanh số cũng như chất lượng tiền gửi của mình. Tiền gửi của khách hàng có thể được NH huy động dưới nhiều hình thức là: tiền gửi thanh toán; tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp; các tổ chức khác; tiền gửi tiết kiệm của dân cư; tiền gửi của các NH khác.

- Tiền vay:

Do ngân hàng trung ương có quy định giới hạn mức huy động tiền gửi của các NHTM theo tỷ lệ tương ứng với vốn chủ sở hữu để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền. Vì vậy, khi cần, các NHTM có thể vay mượn từ ngân hàng trung ương, từ các tổ chức tín dụng hoặc vay trên thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Trong các cách huy động này thì vay từ các tổ chức tín dụng khác là đơn giản nhưng lãi suất cao. Khi NHTM thiếu hụt dự trữ hoặc giải quyết nhu cầu cấp bách trong thanh toán thì giải pháp tốt nhất là vay ngân hàng trung ương với hình thức cho vay là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Hình thức vay trên thị trường vốn thường là các khoản vay không có đảm bảo như phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu). Tuy nhiên, khả năng vay phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính và uy tín của NH nên không phải tất cả các NH đều có thể dễ dàng huy động nguồn vốn này.

- Vốn nợ khác: bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác có thể là thuế chưa nộp, lương chưa trả,…

Hoạt động cho vay, đầu tư

Hoạt động cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính cho NH vì vậy các NHTM hiện nay đang rất chú trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.

Hoạt động cho vay có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:

Phân loại theo hình thức cấp tín dụng

- Chiết khấu thương phiếu:

Thương phiếu là giấy nhận nợ của người mua đối với người bán, được hình thành từ quan hệ mua bán chịu giữa người mua và người bán. Khi sở hữu thương phiếu, người bán có thể chờ đến hạn đòi tiền người mua hoặc mang đến NH xin chiết khấu trước hạn. Số tiền NH chiết khấu phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu và lệ phí

chiết khấu của NH. Nghiệp vụ chiết khấu hoàn toàn dựa trên sự tín nhiệm của NH với những người ký tên trên thương phiếu.

- Cho vay: Nghiệp vụ cho vay được chia thành nhiều nghiệp vụ như thấu chi, cho vay từng lần, cho vay hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp.

Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt và thường không có tài sản đảm bảo nhằm phục vụ cho các khách hàng có đặc điểm thu và chi không phù hợp về thời gian và quy mô. Thấu chi là nghiệp vụ cho vay NH cho phép người vay được chi vượt số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một khoảng thời gian cho phép. Khách hàng thấu chi tài khoản tiền gửi tức là khách hàng đã vay NH và phải trả gốc, lãi như các khoản vay thông thường khác. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, NH sẽ thu gốc và lãi. Các khoản chi vượt quá hạn mức thấu chi sẽ phải chịu lãi suất phạt và khách hàng sẽ bị đình chỉ sử dụng dịch vụ này.

Cho vay từng lần là hình thức cho vay đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên NH, không đủ điều kiện để cấp hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn xin vay và trình NH phương án sử dụng vốn vay. NH sẽ phân tích khách hàng, thẩm định món vay để quyết định có cho vay hay không. Nếu cho vay NH sẽ cùng khách hàng ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô, lãi suất, thời hạn cho vay, phương thức giải ngân và thu nợ. Nghiệp vụ cho vay từng lần khá đơn giản và dễ quản lý do các món vay tách biệt, tiền cho vay phụ thuộc chủ yếu vào giá trị tài sản đảm bảo.

Cho vay hạn mức là nghiệp vụ tín dụng phục vụ cho các khách hàng có nhu cầu vay mượn thường xuyên trong kỳ, NH thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng trong một thời gian nhất định có thể là năm, quý, tháng. Hạn mức tín dụng do NH tính toán cho khách hàng vào một thời điểm có thể là đầu kỳ hoặc cuối kỳ, dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn, nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ có hạn mức, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ hợp lệ chứng minh đã mua hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay, trả nhiều lần nhưng số dư nợ vay không được vượt quá hạn mức tín dụng. NH không ấn định thời hạn trả nợ, ngay khi khách hàng có thu nhập

Xem tất cả 80 trang.

Ngày đăng: 15/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí