Trong Hoạt Động Định Giá Tài Sản Thế Chấp

quyền thu giữ TSBĐ theo quy định tại khoản 2 Điều này để xử lý hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình tiến hành thu giữ TSBĐ, nếu bên giữ TSBĐ có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì người xử lý TSBĐ có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ TSBĐ, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ TSBĐ.

Tinh thần của Điều luật này xác định việc xử lý TSBĐ là mối quan hệ dân sự, hạn chế sự can thiệp của Cơ quan Nhà nước. Trong khi đó, TSBĐ là nhà, đất thường gắn liền với nơi ở, nơi sinh sống hoặc nơi sản xuất kinh doanh của bên vay vốn, bên thế chấp, vì vậy rất ít khi các bên hợp tác tự nguyện bàn giao TSBĐ cho TCTD để xử lý nếu TCTD tự kê biên thu hồi thì sẽ gặp rất nhiều sự cản trở, chống đối hoặc đe dọa từ phía khách hàng, các bên thế chấp. Các cơ quan chức năng chỉ hỗ trợ TCTD thu hồi TSBĐ khi bên giữ TSBĐ có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì người xử lý TSBĐ mới có quyền yêu cầu sự can thiệp của các cơ quan này. Tuy nhiên, sự can thiệp của cơ quan chức năng lúc này cũng chỉ là để giữ trật tự xã hội mà không phải là hỗ trợ các TCTD thu hồi TSBĐ. Trường hợp các bên không thỏa thuận được phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được, TCTD lại phải thu hồi được TSBĐ mới có thể phát mại được. Chính vì thế, quy định của Điều luật này không có tính khả thi và các TCTD không thể thu hồi được TSBĐ nếu các bên có TSBĐ không hợp tác. TCTD phải mất rất nhiều thời gian, công sức để thuyết phục các chủ TSBĐ tự nguyện bàn giao tài sản. Nếu TCTD khi chưa thu hồi được TSBĐ đã ủy quyền cho tổ chức bán đấu giá thì các tổ chức này vẫn yêu cầu TCTD phải cam kết việc bàn giao được tài sản cho người mua trong khoảng thời gian nhất định, nếu không bàn giao được thì TCTD phải bồi thường thiệt hại. Đây là khó khăn chính của TCTD, có những trường hợp ban đầu chủ TSBĐ đồng ý bán đấu giá tài sản, tuy nhiên sau đó lại không giao tài sản cho người mua (mặc dù người mua vẫn được sang tên chủ sở hữu, sử dụng), tranh chấp xảy ra và một mặt TCTD phải bồi

thường cho người mua, mặt khác lại phải khởi kiện ra Tòa án để giải quyết tranh chấp. Thực tế đã có nhiều trường hợp TCTD làm theo hình thức này, sau đó do không bàn giao được tài sản cho người mua nên bị chính người mua kiện lại và phải bồi thường. Có thể nói, quyền thu giữ tài sản của các TCTD thực tế chỉ là trên giấy và hỗ trợ của các cơ quan nhà nước cũng chỉ là “hỗ trợ” trong văn bản.

Gần đây cùng với việc thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), tại Nghị định 53/2013/NĐ-CP về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam có quy định rõ hơn về việc hỗ trợ thu giữ TSBĐ. Cụ thể Khoản 1 Điều 30 Nghị định này quy định: Ủy ban nhân dân, cơ quan công an các cấp nơi tiến hành thu hồi; thu giữ TSBĐ tham gia thu hồi, thu giữ, kiểm kê TSBĐ và áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh trật tự, đảm bảo thực hiện quyền của Công ty Quản lý tài sản trong việc thu hồi, thu giữ TSBĐ. Quy định này chính thức ghi nhận trách nhiệm trong việc tham gia thu hồi, thu giữ TSBĐ của cơ quan nhà nước mà cụ thể là UBND, cơ quan công an các cấp.

Hiện nay, Bộ Tư Pháp – Bộ Tài nguyên và Môi trường – Ngân hàng Nhà nước đã có thông tư liên tịch 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN hướng dẫn một số vấn đề xử lý TSBĐ, trong đó điều 9 của thông tư có đề cập đến trách nhiệm của UBND cấp xã trong việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của người xử lý TSBĐ. Tuy nhiên, điều này cũng chỉ hướng dẫn cụ thể hơn về thủ tục gửi thông báo đến UBND cấp xã trước khi tiến hành thu giữ TSBĐ, theo đó trước thời điểm thu giữ TSBĐ ít nhất bảy (07) ngày làm việc, người xử lý TSBĐ có quyền gửi văn bản thông báo về việc thu giữ TSBĐ đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ TSBĐ. Văn bản thông báo về việc thu giữ tài sản được gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện kèm theo một (01) bản sao hợp đồng bảo đảm thỏa thuận về việc xử lý TSBĐ đã được các bên giao Văn bản của người xử lý TSBĐ phải nêu rõ lý do xử lý, thời gian, địa điểm xử lý, kế hoạch thu giữ tài sản và tài sản dự định thu giữ.

Liên quan đến việc thu giữ TSBĐ để xử lý nợ của các TCTD còn vấp phải một vấn đề khác trong cách hiểu quy định tại khoản 1 Điều 63 Nghị định 163/2006. Theo quy định tại điều khoản này, nếu hết thời hạn ấn định trong thông báo mà bên

giữ TSBĐ không giao tài sản thì người xử lý tài sản có quyền thu giữ TSBĐ theo quy định tại khoản 2 Điều này để xử lý hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết. Quy định của điều khoản này có thể dẫn đến cách hiểu là: nếu bên giữ TSBĐ không giao tài sản theo thông báo của TCTD thì TCTD (với tư cách là người xử lý tài sản) chỉ được lựa chọn một trong hai phương án: Thu giữ tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 63, hoặc khởi kiện tại Tòa án; trong trường hợp TCTD đã thực hiện các biện pháp thu giữ TSBĐ quy định tại Khoản 2 Điều 63 nhưng không thành công thì không được quyền khởi kiện tại Tòa án. Quy định này khiến TCTD, để chắc chắn chỉ có cách lựa chọn xử lý theo con đường tố tụng – phương án vốn tốn kém và mất rất nhiều thời gian.

Nói chung, thu giữ TSBĐ để xử lý thu hồi nợ là một vấn đề nan giải đối với các TCTD đặc biệt là thu giữ TSBĐ là BĐS, xuất phát từ đặc tính của tài sản, đặc điểm cư trú - văn hóa của cộng đồng dân cư, và quan điểm truyền thống của cơ quan nhà nước về các vấn đề đất đai. Về mặt pháp lý, tác giả cho rằng việc giao trách nhiệm hỗ trợ giữ gìn an ninh trật tự hoặc trực tiếp tham thu hồi, thu giữ, kiểm kê TSBĐ như các quy định đã dẫn chiếu ở trên cho UBND cấp xã và cơ quan Công an các cấp đều không hợp lý. Theo thông lệ quốc tế, mọi can thiệp vào tài sản tư pháp phải có lệnh của Tòa án trên cơ sở yêu cầu của chủ nợ, UBND và cơ quan công an không được tự thực hiện các công việc này. Thực tế công tác thu giữ TSBĐ của TCTD cũng cho thấy việc hỗ trợ thu giữ TSBĐ của UBND và cơ quan công an các cấp tại các địa phương rất khác nhau, có địa phương UBND và cơ quan công an hỗ trợ rất nhiệt tình, có địa phương lại không thực hiện hỗ trợ. Cũng đã có những trường hợp khiếu kiện liên quan đến việc UBND và cơ quan công an hỗ trợ TCTD cưỡng chế thu giữ TSBĐ để xử lý. Sự tùy tiện và không thống nhất này bắt nguồn từ cơ chế liên quan đến việc thu giữ TSBĐ chưa rõ ràng và hợp lý. Quy định hiện tại theo pháp luật Việt Nam tưởng chừng trao quyền cho TCTD trong việc chủ động thu giữ tài sản để xử lý nhưng thực tế không tạo ra một cơ chế hữu hiệu để thực thi quyền của chủ nợ trong việc truy đòi TSBĐ và hệ quả tất yếu là TCTD từ vị trí của bên có quyền lại bị đẩy vào tình trạng yếu thế hơn. Do đó, nếu trao quyền quyết định việc thu giữ cho Tòa án thì mới hợp lý, hợp pháp và đảm bảo được nguyên tắc pháp chế. Theo đó, Tòa án sẽ ra quyết định thu giữ tài sản trên cơ sở yêu cầu (kèm

theo các chứng cứ chứng minh việc vi phạm nghĩa vụ và quyền được truy đòi tài sản) của chủ nợ. Trên cơ sở quyết định của Tòa án, các cơ quan nhà nước tại địa phương có trách nhiệm tham gia thu giữ, kiểm kê TSBĐ và bàn giao cho TCTD để xử lý. Tất nhiên cũng cần có một thủ tục nhanh gọn tại Tòa án khi tiếp nhận yêu cầu của TCTD và ra quyết định thu giữ TSBĐ nhằm đảm bảo hiệu quả của việc thu giữ, tránh tình trạng bên bảo đảm chây ỳ hoặc tẩu tán tài sản.

2.2.2.3. Trong hoạt động định giá tài sản thế chấp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.


Xử lý TSBĐ thông qua việc bán đấu giá sẽ đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho các bên, đảm bảo giá trị của tài sản được xử lý là giá thị trường. Tuy nhiên, thực tế khi xử lý TSBĐ nhiều trường hợp TCTD tìm được đối tác hợp lý và tự bán TSBĐ trên cơ sở thỏa thuận tại hợp đồng bảo đảm nhằm nhanh chóng thu hồi khoản nợ. Trong những trường hợp này, việc xác định giá trị tài sản khi xử lý là rất quan trọng để đảm bảo giá xử lý tài sản là giá thị thường. Ngay cả trường hợp bán đấu giá, việc xác định giá khởi điểm khi đấu giá cũng rất quan trọng. Mặc dù về pháp lý, việc định giá chỉ là tham khảo nhưng việc định giá phải đảm bảo độ tin cậy để làm căn cứ khi xử lý. Nếu giá trị tài sản khi xử lý không được xác định dựa trên những căn cứ pháp lý xác đáng thì sẽ dẫn đến tranh chấp kéo dài và việc bán, chuyển nhượng tài sản không thể thực hiện dẫn đến TCTD không thể thu hồi được vốn. Thực tế, đối với các TSBĐ nói chung, các bên bảo đảm khi bị xử lý tài sản thường lấy lý do BĐS bị bán thấp hơn giá trị thị thường để khiếu kiện nhằm mục đích tạo ra tranh chấp giả để không cho TCTD thực hiện thủ tục sang tên, cấp Giấy chứng nhận cho bên mua tài sản.

Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành - 9

Có thể dẫn chiếu một trường hợp tranh chấp kéo dài nhiều năm liên quan đến việc xác định giá trị TSBĐ khi xử lý như sau: Năm 1996, ông Nguyễn Văn Vĩnh thế chấp 7.700 m2 đất ở tại huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh để vay ngân hàng 100 triệu đồng. Vì ông Vĩnh không có khả năng thanh toán nợ nên ngân hàng đã kiện ra tòa. Theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, ông Vĩnh phải trả dứt nợ vào cuối tháng 10-1997. Nhưng rồi ông Vĩnh không trả được nợ nên phần đất trên bị bán đấu giá. Trung tâm Bán đấu giá tài sản Tây Ninh đã hai lần tổ chức bán đấu giá đất nhưng không thành. Vì vậy, tài sản được chuyển cho ngân hàng bán

đấu giá. Năm 2002, bà V. đã mua được phần đất trên với giá 385 triệu đồng. Ông Vĩnh đã có đơn khiếu nại, đồng thời khởi kiện ngân hàng ra tòa nhằm yêu cầu hủy việc đấu giá. Theo ông, ngân hàng đã dựa vào giá định từ năm 1998 làm giá khởi điểm trong khi giá đất vào năm 2002 đã tăng lên rất nhiều. Tính ra một m2 đất của ông Vĩnh giá chỉ 50 ngàn đồng. Giá này vào thời điểm đó chưa mua nổi 10 kg gạo hay một ký rưỡi thịt heo. Tháng 6-2006, TAND tỉnh Tây Ninh đã xử cho ông Vĩnh thua kiện. Tòa này cũng thừa nhận ngân hàng đã không định giá lại tài sản thế chấp. Tuy nhiên, giá khởi điểm đó tương đương với khung giá do UBND tỉnh Tây Ninh quy định năm 2001. Việc không định giá lại không làm cho tài sản bị đưa ra đấu giá với mức thấp hơn, thậm chí nó còn giúp ông Vĩnh được giảm bớt chi phí. Không đồng ý với lập luận của cấp sơ thẩm, ông Vĩnh đã kháng cáo. Tháng 11-2006, Tòa phúc thẩm TAND tối cao mở phiên xử phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Từ đó đến nay, ông Vĩnh liên tục nộp đơn xin giám đốc thẩm [46].

Theo quy định tại Khoản 9 Điều 5 Luật Kinh doanh bất động sản, định giá bất động sản là hoạt động tư vấn, xác định giá của một bất động sản cụ thể tại một thời điểm xác định. Định giá bất động sản có thể chia thành hai nhóm là: Định giá đất (giá trị quyền sử dụng đất) và định giá tài sản gắn liền với đất.

Trong đó, liên quan đến việc xác định giá đất, Luật Đất đai 2013 và các văn bản liên quan hiện nay đã có những quy định và hướng dẫn khá cụ thể về giá đất, phương pháp xác định giá đất tạo cơ sở pháp lý quan trọng để xác định giá đất sát với giá thị trường, hạn chế những tranh chấp phát sinh liên quan đến việc xác định giá đất như: Nghị định 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất; và Thông tư 36/2014/TT-BTNMT quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành.

Tuy nhiên với giá trị của tài sản gắn liền với đất mà cụ thể là nhà ở, công trình xây dựng trên đất thì hiện nay chưa có các quy định cụ thể hướng dẫn. Tại điều 51 Luật Kinh doanh bất động sản có đưa ra một số nguyên tắc hoạt động định giá bất động sản như sau:

- Tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ định giá bất động sản phải có các

điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 8 của Luật này.

- Việc định giá bất động sản phải dựa trên các tiêu chuẩn kỹ thuật, tính chất, vị trí, quy mô, thực trạng của bất động sản và giá thị trường tại thời điểm định giá.

- Việc định giá bất động sản phải độc lập, khách quan, trung thực và tuân thủ pháp luật.

Tuy nhiên các văn bản hướng dẫn Luật Kinh doanh bất động sản của Chính Phủ và Bộ Xây dựng tại không quy định các nội dung hướng dẫn cụ thể về việc định giá bất động sản gây khó khăn cho các đơn vị định giá, từ đó dễ dẫn đến tranh chấp về giá trị của tài sản gắn liền với đất. Phần lớn việc định giá các công trình, tài sản trên đất hiện nay căn cứ vào chi phí xây dựng và khấu hao của các công trình này. Tuy nhiên, phương pháp định giá này chưa thật sự phù hợp vì giá trị của công trình còn liên quan đến giá trị sử dụng và các tính năng của công trình, ngoài ra đối với chi phí xây dựng công trình còn liên quan đến yếu tố trượt giá của nguyên vật liệu, của giá nhân công,... . Việc các văn bản pháp luật hiện nay chưa đưa ra được các phương pháp để các tổ chức định giá có cơ sở pháp lý làm căn cứ khi định giá đã gây khó khăn cho công tác định giá khi xử lý TSBĐ. Đối với các tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai việc xác định giá trị khi xử lý tài sản cũng hoàn toàn chưa có cơ sở pháp lý. Ví dụ đối với trường hợp định giá các tài sản hình thành trong tương lai của các dự án bất động sản như các tòa nhà chung cư, tòa nhà văn phòng, tòa nhà có chức năng hỗn hợp thì việc định giá hiện nay chủ yếu căn cứ vào tổng dự toán xây dựng của dự án, trong khi giá trị của các công trình này sau khi hình thành lớn hơn rất nhiều so với con số của dự toán xây dựng.

Việc thiếu các cơ sở pháp lý để định giá bất động sản gây khó khăn rất lớn cho các TCTD khi xử lý TSBĐ đặc biệt trong trường hợp bên bảo đảm, khách hàng vay không hợp tác mà TCTD phải xử lý theo phương thức TCTD tự đứng ra bán, chuyển nhượng tài sản như đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc xác định giá khởi điểm khi bán đấu giá, dễ dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý TSBĐ để thu hồi nợ của TCTD.

Ngoài ra, đối với các tài sản bảo đảm khác như quyền sở hữu trí tuệ, việc định giá vô cùng khó khăn vì ở Việt Nam chưa hình thành thị trường giao dịch, mua

bán loại tài sản này nên tính thanh khoản rất thấp. Cùng với việc thiếu cơ sở pháp lý để định giá nên dẫn đến việc khó định giá loại tài sản này.

2.2.2.4. Trong hoạt động bán tài sản thế chấp


Thực tiễn hoạt động cho vay cho thấy rằng đa phần các khoản nợ tồn đọng của các TCTD đều có TSBĐ và các tài sản này phần lớn là quyền sử dụng đất, nhà, công trình xây dựng trên đất. Vì vậy, việc tự nhận các tài sản này để khấu trừ nợ vay dường như đã trở nên khó thực hiện đối với các TCTD. Bởi lẽ, nhận để sử dụng thì không có nhu cầu hoặc đã quá tỷ lệ tài sản cố định so với vốn chủ sở hữu, nhận và sau đó để bán lại hoặc kinh doanh cho thuê thì không được phép vì Luật các TCTD không cho phép các TCTD kinh doanh bất động sản. Nếu TCTD tự bán tài sản lại gặp nhiều khó khăn vì trình tự thủ tục bán tài sản phải phụ thuộc vào thái độ hợp tác của bên bảo đảm và phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện thủ tục trước bạ sang tên, đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản. Nhìn chung, trong khuôn khổ pháp luật hiện hành về xử lý TSBĐ thì dù đã có thỏa thuận nhưng TCTD vẫn chưa được toàn quyền xử lý TSBĐ khi khách hàng vay không trả nợ.

Một số nguyên nhân pháp lý đến từ hệ thống pháp luật và các cơ quan quản lý, tư pháp cũng gây khó khăn cho việc xử lý TSBĐ cho hệ thống TCTD. Tài sản bất động sản mặc dù được thế chấp tại TCTD đầy đủ giấy tờ, công chứng tài sản đầy đủ nhưng khi cần TCTD không thể tự bán bất động sản. Lý do là nghị định 163/2006 về giao dịch bảo đảm cho phép, nhưng theo BLDS quy định rõ hợp đồng mua bán phải là chủ tài sản hay đại diện luật pháp được ủy quyền. Do đó, tài sản đã được công chứng thế chấp nhưng bên công chứng vẫn không thể thực hiện thủ tục sang tên đổi chủ cho bất động sản đó nếu như chủ tài sản không đồng ý, không ủy quyền rõ ràng và thậm chí còn phản đối việc xử lý TSBĐ của TCTD. Nhiều trường hợp tài sản được bán theo đúng trình tự, thủ tục quy định nhưng đến giai đoạn thực hiện thủ tục sang tên, cấp giấy chứng nhận mới cho người mua thì chủ tài sản cố tình tạo ra tranh chấp giả tạo hoặc gửi đơn khiếu nại đến UBND và các cơ quan nhà nước nhằm không cho TCTD thực hiện thủ tục sang tên cho người mua tài sản. Ngoài ra, những hạn chế trong các quy định về thuế, xuất hóa đơn cho bên bán cũng là nguyên nhân gây cản trở việc bán TSBĐ là BĐS của TCTD, chúng tôi sẽ có

những phân tích cụ thể về vấn đề này tại phần sau (mục 2.2.2.8).

Trong những trường hợp này, giải pháp cuối cùng để có quyền hợp pháp bán bất động sản là TCTD phải khởi kiện ra tòa. Nhưng thực tế, thì phải trải qua vài ba năm, qua rất nhiều cấp xét xử như sơ thẩm, phúc thẩm, có khi lại giám đốc thẩm để xử lại từ sơ thẩm… TCTD mới nhận được một bản án, quyết định có hiệu lực làm căn cứ yêu cầu thi hành án xử lý TSBĐ. Mà không có gì bảo đảm chắc chắn TCTD thắng kiện để có thể xử lý tài sản. Thắng kiện rồi đến khi thi hành án tại cơ quan Thi hành án dân sự để xử lý TSBĐ cũng phức tạp không kém. Tóm lại để cuối cùng xử lý được một bất động sản thì TCTD cũng đã tốn nhiều thời gian, chi phí.

Xin dẫn chiếu vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa VietinBank và Công ty Ngọc Quang tại Bình Dương để minh chứng cho những thực tiễn khó khăn của TCTD khi bán TSBĐ là BĐS để thu nợ: Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Khu công nghiệp Bình Dương (gọi tắt là VietinBank) và Công ty TNHH Ngọc Quang (gọi tắt là Công ty Ngọc Quang) đã ký kết với nhau tổng cộng 13 hợp đồng tín dụng với tổng số tiền gốc cho vay là 12.264.300.000 đồng

. Để đảm bảo cho các khoản vay của 13 hợp đồng tín dụng này, Công ty Ngọc Quang thế chấp các tài sản là: 03 nhà xưởng, 01 nhà máy, hệ thống thoát nước, tường rào, đường nội bộ gắn liền quyền sử dụng 6.012 m2 đất thuê tại Khu công nghiệp Đồng An, tỉnh Bình Dương; 03 dây chuyền sản xuất bột mì Trung Quốc sản xuất.

Đến hạn thanh toán nợ, Công ty Ngọc Quang không thanh toán được nợ của 13 hợp đồng tín dụng trên. Tại các hợp đồng cầm cố, thế chấp giữa VietinBank và Công ty Ngọc Quang đã có các thỏa thuận về việc xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể là: “Trường hợp bên A vi phạm hợp đồng tín dụng thì phải chấp nhận phương thức xử lý tài sản cầm cố (hoặc tài sản thế chấp) của bên B” và “ Trường hợp bên A không trả được nợ cho bên B như đã thỏa thuận, bên B được toàn quyền xử lý tài sản cầm cố (hoặc thế chấp) để thu hồi nợ theo các phương thức do bên B quyết định như sau: Trực tiếp bán tài sản cầm cố (hoặc thế chấp) cho người mua,…”. VietinBank căn cứ vào điều khoản xử lý TSBĐ trong các hợp đồng để tự mình bán các tài sản cho Công ty Cổ phần Cơ khí Đồng Lực (Công ty Đồng Lực) thu được 10.050.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền thu được từ việc bán tài sản đã thanh toán cho một số hợp đồng tín dụng, nhưng công ty Ngọc Quang vẫn còn nợ VietinBank 5.273.000.000

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 09/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí