Các chi phí cùa Ngân hàng có thể được tính khi tài khoản hoạt động, dựa trên cơ sở số lượng giao dịch thông qua tài khoản.
Nhưng thực tế hầu hết các Ngân hàng đưa ra loại tài khoản vãng lai trên số dư có. Những người có tài khoản vãng lai được sử dụng hầu hết các dịch vụ của Ngân hàng.
2.2.5. Tài khoản kỳ phiếu, trái phiếu:
ở Việt Nam, hình thức phát hành các chứng chỉ tiền gửi đó chính là phát hành kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích. Được hạch toán thông qua tài khoản tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng . Tài khoản kỳ phiếu chứng chỉ tiền gửi được mở ra trong các đợt huy động vốn mang tính chất định kỳ, khi nào có nhu cầu vốn đột xuất, hay khi có chương trình sử dụng vốn vào một mục đích nào đó. Lãi suất trên tài khoản huy động vốn này thường cao hơn lãi suất các nguồn vốn huy động khác và không được duy trì thường xuyên.
Tuy mới được sử dụng trong ít năm gần đây, song hình thức huy động vốn này ngày càng phát huy vai trò trong việc tạo vốn của các Ngân hàng.
Tài khoản tiền gửi trái phiếu: Đây là tài khoản dùng để hạch toán số tiền vay nợ dài hạn trên thị trường vốn do các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn.
Trái phiếu được phát hành với mức lãi suất và thời hạn cố định. Mức lãi suất này được xác định theo mức lãi suất trên thị trường vốn tại các thời điểm phát hành.
Huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi trái phiếu đã giúp các Ngân hàng thương mại chủ động trong việc huy động vốn để thực hiện các dự án đầu tư trung, dài hạn. Nguồn vốn này mang tính ổn định cao về thời gian sử dụng và lãi suất đầu tư.
III. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động vốn.
Có thể bạn quan tâm!
- Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi - 1
- Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi - 2
- Hoạt Động Huy Động Vốn Của Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Trong Thời Gian Qua.
- Các Nguồn Vốn Huy Động Từ Các Tổ Chức Kinh Tế Và Dân Cư.
- Cơ Cấu Loại Tiền Gửi Tiết Kiệm
Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.
1. Chính sách lãi suất cạnh tranh:
Lãi suất là yếu tố hàng đầu mà người gửi tiền quan tâm đến vì vậy muốn thu hút được vốn huy động, các Ngân hàng phải đưa ra các mức lãi suất kích thích trả chongười gửi tiền thoả đáng, nếu không nói là tốt hơn các Ngân hàng khác. Đặc biệt
trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ dù cho những khác biệt tương đối nhro về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ đang có sang tiết kiệm hoặc đầu tư hay từ một tổ chức tín dụng này sang một Công ty hoặc một tổ chức tín dụng khác.
Tuy vậy cạnh tranh bằng lãi suất là cạnh tranh có giới hạn. Một Ngân hàng nếu không bị khống chế bởi lãi suất huy động “trần” và lãi suất cho vay “sàn” của NHTW, thì cũng bị khống chế bởi chính lợi nhuận và sự tồn tại của Ngân hàng.
2. Các dịch vụ do Ngân hàng cung ứng:
Để phát huy được hết khả năng của các khoản tiền gửi, Ngân hàng đưa ra một phạm vi dịch vụ cho vay rộng lớn cùng với sự phát triển không ngừng mạng lưới cung cấp các dịch vụ và nới rộng các chức năng khác của mình để đáp ứng các nhu càu dịch vụ phụ trợ của khách hàng chẳng hạn dịch vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu của khách hàng, ký phát thư bảo lãnh, chuyển đổi tiền tệ từ loại này sang loại khác, bố trí thời gian tiếp khác phù hợp.... Hoạt động Ngân hàng là kinh doanh kiếm lời và cạnh tranh ngày càng tăng giữa các Ngân hàng với nhau. Bởi cạnh tranh tăng lên, nên hoạt động Ngân hàng vấp phải khó khăn ngày càng nhiều trong việc tìm kiếm lợi nhuận. Nguyên nhân đó khiến các Ngân hàng không ngừng tìm tòi những hình thức dịch vụ mới nhằm mở rộng kinh doanh. Một Ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn các Ngân hàng có các dịch vụ hạn chế. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ Ngân hàng là cạnh tranh không có giới hạn. Trong nền kinh tế hiện đại, các Ngân hàng cạnh tranh với nhau chủ yếu bằng con đường này.
3. Chính cách khách hàng:
Trong công tác khách hàng, Ngân hàng thường chia khách hàng ra làm nhiều loại để có cách thức đối xử phù hợp. Với những khách hàng lâu năm giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn, được Ngân hàng tín nhiệm, thì Ngân hàng sẽ có một chính sách ưu đãi về lãi suất, kỳ hạn củamón vay, cũng như thực hiện việc xét thưởng đối tác, có như vậy Ngân hàng mới có khả năng thu hút khách hàng và tăng nhanh khả năng hoạt động vốn của mình.
4. Công nghệ Ngân hàng.
Trong cạnh tranh, các Ngân hàng không ngừng đổi mới công nghệ, bởi lẽ, các dịch vụ, đặc biệt các dịch vụ về chuyên môn Ngân hàng sẽ được đa dạng, chất lượng ngày càng tôt shơn, đảm bảo các loại dịch vụ được cung ứng nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Tất nhiên với công nghệ Ngân hàng tiên tiến sẽ giúp Ngân hàng phục vụ được khách hàng một cách tốt hơn, chỗ đứng của Ngân hàng đó trên thị trường sẽ vững vàng hơn thì sẽ có nhiều khách hàng biến đến Ngân hàng đó (công nghệ cao có khả năng giúp cho Ngân hàng đó có khả năng thanh toán nhanh, thủ tục ít rườm rà). Điều này cũng làm cho khả năng huy động vốn của Ngân hàng cũng dễ dàng hưon.
5. Chính sách cán bộ:
Một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm, được bố trí công việc phù hợp với năng lực, đoàn kết thân thiện, luôn luôn là nền tảng của sự thành công. Nói chung, người ta đều mong muốn giao dịch kinh doanh với một hãng bề thế với các nhân viên dễ mến lịch sủ và có kiến thức.
6. Chính sách tiếp thị:
Là sản phẩm của cạnh tranh và hệ quả của sự nghiên cứu tìm tòi các dịch vụ mới - các Ngân hàng trơ rnên quan tâm nhiều hơn đến lĩnh vực tiếp thị (Marketing). Tiếp thị không đơn giản chỉ là vấn đề bán ra một sản phẩm nào đó, mà đây là cả một quá trình phát hiện, tìm kiếm khách hàng để tạo ra những sản phẩm thích hợp cho họ, thuyết phục họ “mua” chúng thay vào việc “mua” những sản phẩm có chức năng tương tự do người khác cung cấp. Một trong những biện pháp thuyết phục các Ngân hàng hiện đang làm đó là quảng cáo. Trong hoạt động Ngân hàng hiện đại, quảng cáo được chú ý và có một chi phí nhất định dành cho công tác này.
7. Địa điểm:
Đây cũng là một yếu tố hết sức quan trọng ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của một Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng nằm ở trung tâm thương mại của thành phố,có vị trí địa lý tốt và an ntoàn cho khách hàng của mình sẽ có khả năng thu hút được nhiều khách hàng hơn.
8. Uy tín hoặc mức độ thâm niên của một Ngân hàng.
IV. Vai trò của công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp cho nền kinh tế, trong khi nguồn vốn của Ngân hàng thương mại chủ yếu là nguồn huy động vốn. Vì vậy có thể nói công tác huy động vốn có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là cơ sở để Ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Không những thế, công tác huy động vốn tác động việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng cấp tín dụng của Ngân hàng cho nền kinh tế.
Theo giác độ không gian, một Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn từ trong nước và nước ngoài. ý kiến hiện nay của các nhà kinh tế là : “Đối với Việt Nam, nguồn vốn nước ngoài là rất quan trọng, nguồn vốn trong nước đóng vai trò chủ yếu. Thật vậy, trong giai đoạn bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, khôn gthể không cần những cú “hích” từ bên ngoài. Bằng cách liên doanh liên kết mở văn phòng đại diện ở nước ngoài, phát hành trái phiếu ra nước ngoài... Các Ngân hàng có thể thu hút vốn từ các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng quốc tế... góp phần đẩy mạnh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên cũng cần phải quán triệt rằng nguồn vốn trong nước là chủ yếu cần được khai thác kịp thời. Nguồn trong nước vừa là tiền đề vừa là điều kiện để có thể chấp nhận nguồn vốn từ nước ngoài.
Mục tiêu của giai đoạn 1991 - 2000 đối với nước ta là phải tăng trưởng kinh tế nó đòi hỏi nhiều yếu tố nhân lực, tài lực, tài nguyên... trong đó nhân lực và tài lực có ý nghĩa quyết định. Theo kinh nghiệm của các nước, 2 yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế là vốn và con người trong đó riêng yếu tố vốn góp vào sự phát triển là từ 30 - 50%.
Để đạt được GDP năm 2000 so với năm 1990 gấp 2 đến 2,5 lần thì nền kinh tế cần có tốc độ tăng trưởng từ 8 - 10%/năm. Như vậy theo tính toán của Bộ Tài chính trong chính sách tài chính quốc gia giai đoạn 1997 - 2000 đất nước cần 40 đến 41 tỷ USD. Trong đó khoảng 50% là vốn huy động từ trong nước và 50% là huy động từ trong nước và 50% là huy động từ nước ngoài.
Các Ngân hàng thương mại là kênh đầu tư vốn quan trọng đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển của nền kinh tế, để góp phần thực hiện mục tiêu trên, các Ngân hàng thương mại không ngừng đổi mới cơ chế hoạt động, huy động nguồn theo 2 hướng trên.
Công tác huy động vốn tạo ra nguồn vốn to lớn chủ yếu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ngược lại sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước làm kinh tế phát triển, là dân giầu, nước mạnh, tạo ra nguồn vốn lớn hơn ảnh hưởng tích cực tới việc huy động vốn.
Chương II
Thực trạng huy động vốn tại
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
I. Vài nét về Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội:
1. Sơ lược lịch sử Ngân hàng Đầu tư và Phát triển:
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội goi tắc là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội có trụ sở tại 4B Lê Thánh Tông quận Hoàn Kiếm - Hà Nội, được thành lập từ ngày 27/5/1957 với tên gọi ban đầu là Ngân hàng kiến thiết Hà Nội, nằm trong hệ thống Ngân hàng kiến thiết Việt Nam, trực thuộc Bộ Tài chính.
Nhiệm vụ của Ngân hàng trong thời kỳ này là nhận vốn từ ngân sách Nhà nước để tiến hành cấp phát và cho vay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Năm 1982, Ngân hàng được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Hà Nội nằm trong hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam.
Tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước đã ban hành 2 Pháp lệnh về Ngân hàng đó là: Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty Tài chính nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống Ngân hàng cho thích ứng với cơ chế thị trường.
Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 01/10/1990. Theo đó hệ thống Ngân hàng bao gồm 2 cấp:
- Ngân hàng Trung ương là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Các Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng Đầu tư & Phát triển, Công ty Tài chính và Hợp tác xã tín dụng.
Theo quy định của Pháp lệnh, ở Việt Nam chỉ được thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát triển quốc doanh. Ngày 14/11/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Quyết định số 401 về việc thành lập “Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Có trụ sở đóng tại 194 - Trần Quang Khải - Hà Nội. Vốn điều lệ 200 tỷ đồng.
Có các Chi nhánh trực thuộc tại tỉnh, thành phần, đặc khu trực thuộc Trung
ương.
Từ đầu năm 1995, toàn bộ vốn cấp phát và một bộ phận cán bộ được bàn giao sang Cục Đầutư phát triển, trực thuộc Bộ Tài chính.
Như vậy, từ ngày thành lập cho tới 01/01/1995 Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội không hoàn toàn là một Ngân hàng Thương mại mà chỉ là một kiểu Ngân hàng quốc doanh có nhiệm vụ nhận vốn từ ngân sách Nhà nước và tiến hành cấp phát cho vay trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Từ sau ngày 01/01/1995 Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Hà Nội được phép huy động các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài hạn từ các thành phần kinh tế như một NHTM để tiến hành các hoạt động cho vay ngắn, trung và dài hạn đối với mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và dân cư. Hiện nay, Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Hà Nội hoạt động như một Ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng tổng hợp, nhưng lĩnh vực chủ yếu là phục vụ đầu tư phát triển đối với khách hàng truyền thống là các đơn vị xây lắp.
2. Những thuận lợi và khó khăn của Ngân hàng.
2.1. Những thuận lợi:
Ngân hàng có những thuận lợi cơ bản:
- Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam đã triển khai kịp thời hệ thống cơ chế mới cùng những thông tin, quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện cho việc chuyển đổi hoạt động của toàn hệ thống.
- Bước vào hoạt động như một NHTM, Ngân hàng có thể tranh thủ kế thừa, học hỏi được những kinh nghiệm rút ra từ những thành công, thất bại ở các Ngân hàng khác.
- Nằm trên địa bàn sôi động là Quận Hoàn Kiếm - một quận trung tâm về kinh tế, thương mại của Thủ đô - Ngân hàng có điều kiện thuận lợi để phát triển các hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh, các loại hình dịch vụ một cách đa dạng. Mặt khác, các nguồn huy động từ tiền gửi khách hàng, tiền gửi của các tổ chức tín dụng và tiết kiệm từ dân cư là rất phong phú giúp cho Ngân hàng có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các doanh nghiệp.
- Ngân hàng với chính sách khách hàng đổi mới đã tìm thêm khách hàng mới, mở rộng quan hệ với các tổ chức tín dụng khác và duy trì được một đội ngũ khách hàng truyền thống từ nhiều năm nay. Đây cũng là một yếu tố thuận lợi trong công tác huy động sử dụng nguồn của ngân hàng.
- Ngoài ra Chi nhánh còn luôn nhận được sự chỉ đạo, giúp đỡ có hiệu quả và rất kịp thời từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Thành uỷ, UBND thành phố, Ngân hàng Nhà nước Hà nội; sự đoàn kết nhất trí từ ban lãnh đạo đến cán bộ công nhân viên, có đội ngũ cán bộ lâu năm, nhiều kinh nghiệm trong công tác tín dụng ĐTPT.
- Qua 4 năm chuyển sang hoạt động kinh doanh nghiệp vụ kinh tế đối ngoại bước đầu đem lại hiệu quả tốt, góp phần mở rộng khách hàng. Khả năng quản trị điều hành kinh doanh của ban lãnh đạo đã được nâng lên một bậc. Sự đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hiện đại giúp Ngân hàng ĐT & PT Hà Nội đứng vững và tiếp tục lớn mạnh trong hoạt động kinh doanh của mình. Sự ra đời của Luật Ngân hàng tạo thuận lợi về môi trường pháp lý cho hoạt động của các ngân hàng thương mại.
2.2. Những khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi Ngân hàng cũng gặp một số khó khăn như sau:
Tuy là một trong những Ngân hàng ra đời sớm (cách đây đã 41 năm) nhưng tời đầu năm 1995 Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội mới thực sự chuyển hẳn sang kinh doanh theo cơ chế thị trường. Trong quá trình chuyển đổi này, Ngân hàng đã vấp phải những khó khăn nhất định. Cụ thể: