Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi - 1


LUẬN VĂN:


Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi



Lời nói đầu


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.

Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các ngành Ngân hàng nước ta gánh một trọng trách rất nặng nền. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đều chú trọng đến vấn đề đổi mới và phát triển nền kinh tế để theo kịp các nước đang phát triển của khu vực, hội nhập với các nước trên thế giới.

Việc xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, cộng với chính sác mở cửa, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế trên thực tế đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế nước ta sang một sắc thái mới trong mấy năm qua.

Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi - 1

Nền kinh tế thị trường dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế và dứoi sự điều tiết của Nhà nước đã từng bước giải quyết được quan hệ cung cầu về hàng hoá và sản phẩm. Thu nhập quốc dân những năm qua tăng trưởng thật đang sản phẩmấn khởi. Khối lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ tăng lên không ngừng. Khối lượng đầu tư và các ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm thuỷ sản tăng mạnh làm thay đổi từng ngày, từng giờ bộ mặt của đất nước.

Có được kết quả to lớn đó là do có sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp trong cả nước, trong đó ngành Ngân hàng đóng một phần không nhỏ.

Hoạt động của Ngân hàng chủ yếu là cấp tín dụng cho nền kinh tế nên Ngân hàng phải không ngừng nâng cao công tác huy động vốn để đáp ứng được vốn trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, việc huy động vốn của Ngân hàng thương mại còn bị hạn chế, ẩn đọng trong dân còn nhiều. Đây là nguồn vốn trong nước cần được khai thác để đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó Ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng.

Vì vậy, trong quá trình thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội tôi đã chọn khoá luận: “Một số ý kiến về mở rộng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội qua các loại hình tài khoản tiền gửi

Nội dung khoá luận bao gồm :


Chương I: Lý luận chung về công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại.


Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.

Chương III: Giải pháp và kiến nghị đối với công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.

Hoàn thành bản khoá luận này xem xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Vũ Thiện Thập, người đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập và viết khoá luận. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ban lãnh đạo, các cô chú, anh chị cán bộ Phòng Nguồn vốn kinh doanh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.

Chương I:

Lý luận chung về công tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại


I. Ngân hàng thương mại và các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại:


1. Vị trí của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế:


Ngân hàng được xem là một ngành dịch vụ có từ lâu đời trên thế giới, Ngân hàng ra đời khi sản xuất hàng hoá đã phát triển tới mức nhất định. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ chưa có sản xuất hàng hoá, nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, do đó Ngân hàng chưa xuất hiện. Tuy nhiên đã có những mầm mống sơ khai của hoạt động Ngân hàng, đó là cho vay nặng lãi.

Khi nền sản xuất phát triển, chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế, theo đó hệ thống Ngân hàng được hình thành. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế hàng hoá một mặt phục vụ cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế, song mặt khác cũng chính là do mục đích sinh lời của Ngân hàng không ngừng hoàn thiện và phát triển.

Lúc đầu, hoạt động Ngân hàng chỉ đơn giả là các dịch vụ đổi tiền, các dịch vụ này rất đơn giản, nó chỉ phù hợp với buổi bình minh của nền sản xuất hàng hoá.

Khi nền sản xuất hàng hoá phát triển đến trình độ cao nó đòi hỏi các hình thức dịch vụ Ngân hàng càng phải phong phú, đa dạng, do vậy các hình thức tín dụng và dịch vụ Ngân hàng được phát triển để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền sxhd.

Ngày nay kinh tế thị trường là sự phát triển đến trình độ cao của kinh tế hàng hoá. Do đó Ngân hàng càng có vị trí quan trọng. Ngoài chức năng kinh doanh thông thường của mình, Ngân hàng còn là công cụ trong tay Nhà nước để thực thi việc quản lý điều hành nền kinh tế có hiệu quả.

2. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong việc phục vụ kinh tế phát triển:

Trong nền kinh tế thị trường với một đặc trưng nổi bật là mức độ tiền tệ hoá ngày càng cao, các mối quan hệ kinh tế, trong đó vốn là yếu tố quyết định phần lớn thành công các mục tiêu phát triển của quốc gia.

Trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, doanh nghiệp có mối quan hệ giao dịch, thông qua hệ thống thị trường, môi trường pháp lý, trình độ dân trí, lao động, lĩnh vực đầu tư, công nghệ thiết bị thông tin, thị trường các sản phẩm, thị trường tiền tệ - tài chính.

Vậy vấn đề quản trị tài chính, huy động vốn và phát triển vốn được đặt ra với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh sản xuất diễn ra và phát triển không ngừng còn có các mối quan hệ phức tạp đa dạng khác nảy sinh ra trong sự gặp gỡ trực tiếp giữa chủ dư thừa và vốn và thiếu hút vốn đang gặp khó khăn trở ngại.

Để giải quyết mối quan hệ ấy đã hình thành một định chế trung gian quan trọng nhất là Ngân hàng thương mại. Như vậy Ngân hàng thương mại là chủ thể kinh doanh thị trường vốn tiền tệ - tín dụng. Đó là yêu cầu khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hoá.

Ngân hàng thương mại ra đời ra đời là một khâu quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế vì nó cung ứng vốn để thực hiện sự nghiệp hiện đại hoá đất nước.

Trong thế giới hiện đại Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng nhất trong các định chế tài chính của mỗi nước. Hoạt động của Ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú, phạm vi rộng lớn nên có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường.

Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân, tức là mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thế đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi tạm

thời được giải pháp ra từ quá trình sản xuất và lưu thông, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn vốn huy động được, các Ngân hàng thương mại cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Như vậy nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng phạm vi sản xuất, công nghệ, tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng lao động, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng đáp ứng vốn cho doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, tạo cho doanh nghiệp có chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.

Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian thanh toán cho các tổ chức kinh tế, cá nhân trong xã hội. Tổ chức công tác thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế.

Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sưc thực sự là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán, các Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại thực hiện việc điều hoà các luồng tiền, tích tụ và phân phối cho các ngành. Với những nội dung hoạt động như vậy, Nhà nước đã sử dụng Ngân hàng thương mại như là một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế.

Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với hệ thống tài chính quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường khi các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày

càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính mỗi nước phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế. Ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hoà nhập này. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ Ngân hàng khác. Ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng mở rộng thông qua các hoạt động thanh toán kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các Ngân hàng nước ngoài. Hệ thống Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của hệ thống tài chính thế giới.

3. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại:

3.1. Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn của Ngân hàng:


Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại bao gồm các nghiệp vụ sau:

3.1.1. Nghiệp vụ tiền gửi:


Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi từ doanh nghiệp vào Ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó Ngân hàng thương mại có thể huy động được. Ngoài ra các Ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào Ngân hàng với mục đích hưởng lãi.

3.1.2. Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá:


Các Ngân hàng thương mại sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính dài hạn, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của Ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, các nghiệp vụ này còn giúp các Ngân hàng thương mại tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.

3.1.3. Nghiệp vụ đi vay:


Đối với nghiệp vụ này các Ngân hàng thương mại tiến hành tạo vốn cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng trung ương

dưới hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo... nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân Ngân hàng thương mại khi mà họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.

3.1.4. Nghiệp vụ huy động vốn khác:


Ngân hàng thương mại có thể tiến hành tạo vốn thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

3.1.5. Vốn tự có của Ngân hàng:


Đây là vốn thuộc sở hữu riêng có của các Ngân hàng. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân Ngân hàng mang lại. Nó góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.

3.2. Nghiệp vụ tài sản có:


Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại. Nội dung của nghiệp vụ bao gồm:

3.2.1. Nghiệp vụ ngân quỹ:


Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của Ngân hàng được dùng vào với mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng trung ương đề ra.

3.2.2. Nghiệp vụ cho vay:


Đây là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Nghiệp vụ này bao gồm các khoản sinh lời của các Ngân hàng thông qua việc cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với nền kinh tế.

3.2.3. Nghiệp vụ đầu tư tài chính:


Các Ngân hàng thương mại thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường.

Xem tất cả 87 trang.

Ngày đăng: 06/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí