và các khoản chi khác liên quan đến công tác huy động vốn, còn thu từ lãi cho vay chỉ bao gồm thu từ hoạt động cho vay đó.
* Thu nhập từ lãi cho vay/Tổng dư nợ.
Là chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lời của ngân hàng từ hoạt động cho vay, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ ngân hàng đó làm ăn có hiệu quả, khi đánh giá chỉ tiêu này thì các ngân hàng sẽ so sánh đánh giá tỷ lệ này qua các tháng, các kỳ, các năm khác nhau để đánh giá mức độ tăng trưởng cũng như so sánh với các ngân hàng trong cùng hệ thống, ngoài hệ thống, và tỷ lệ trung bình của toàn hệ thống ngân hàng để đánh giá tốc độ phát triển của ngân hàng mình so với toán hệ thống ngân hàng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì các dịch vụ của ngân hàng cũng phát triển theo, tỷ trọng thu lãi cho vay của các ngân hàng có xu hướng giảm và thu từ các dịch vụ khác tăng lên. Tuy nhiên, tỷ trọng thu từ lãi cho vay vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng nhất là đối với các ngân hàng ở Việt Nam.
* Hiệu suất sử dụng vốn.
- Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về Quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng thì ngân hàng được sử dụng không quá 80% nguồn vốn huy động được để cấp tín dụng, tổng dư nợ cho vay của Tổ chức tín dụng đối với 1 khách hàng không được vượt quá 15% Vốn tự có của Tổ chức tín dụng, tổng dư nợ cho vay của Tổ chức tín dụng đối với 1 nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60 % Vốn tự có của Tổ chức tín dụng.
- Phân tích cơ cấu cho vay trong tổng nguồn vốn huy động là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản thân ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại có thể biết được khả năng mở rộng tín dụng của mình. Từ đó, có thể quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa đảm bảo an toàn vốn cho vay, vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất có thể
- Theo Quyết định số 1627/2011/QĐ–NHNN ngày 31/12/2001 và các văn bản sửa đổi bổ sung về Quy chế cho vay của các Tổ chức tín dụng thì Tổ chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn sau đây:
Có thể bạn quan tâm!
- Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội Chi Nhánh Việt Trì - 2
- Tác Động Của Tín Dụng Đối Với Sự Tồn Tại Và Phát Triển Của Ngân Hàng Thương Mại.
- Sự Cần Thiết Phải Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại.
- Khái Quát Về Ngân Hàng Tmcp Quân Đội – Cn Việt Trì.
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Tmcp Quân Đội Chi Nhánh Việt Trì Giai Đoạn 2010 - 2012.
- Tình Hình Huy Động Vốn Tại Mb Chi Nhánh Việt Trì
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
+ Để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi;
+ Để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật
cấm;
+ Để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà pháp luật cấm.
+ Để đảo nợ.
+ Để mua vàng, trừ trường hợp được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận cho phép vay vốn mua vàng để sản xuất vàng miếng, sản xuất, gia công vàng trang sức mỹ nghệ và cho vay để nhập khẩu vàng nguyên liệu theo giấy phép của Ngân hàng nhà nước.
1.3.4.Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại.
1.3.4.2. Nhân tố từ bên trong ngân hàng
- Nguồn vốn: Tình hình huy động vốn ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Vốn huy động ngắn hạn là nguồn chủ yếu để cho vay ngắn hạn, vốn huy động trung dài hạn là nguồn chủ yếu để cho vay trung dài hạn. Vốn huy động càng lớn, ngân hàng thương mại càng có khả năng cho vay, mở rộng hoạt động tín dụng. Nếu ở ngân hàng không có sự phù hợp về kỳ hạn giữa nguồn huy động và cho vay mà không dự kiến dược nguồn bù đắp thì rủi ro thanh khoản sẽ xảy ra.
- Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho các bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Nội dung cơ bản của chính sách tín dụng bao gồm toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách tín dụng như quy mô và giới hạn tín dụng, chích sách lãi suất, thời hạn tín dụng và các kỳ
hạn trả nợ, các khoản đảm bảo, điều kiện giải ngân và điều kiện thanh toán, chích sách đối với các tài sản có vấn đề…
Chính sách tín dụng có thể nói là xương sống trong hoạt động của ngân hàng. Mục tiêu của chính sách này là giảm thiểu rủi ro tín dụng và tăng khả năng sinh lời. Nếu ngân hàng có chích sách tín dụng tốt sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời an toàn vốn đồng thời thực hiện tuân thủ đúng luật pháp, đường lối chính sách của Nhà nước. Nội dung chính của chính sách này là tài trợ cho khách hàng, phục vụ khách hàng trên cơ sở an toàn, thực chất đó là chính sách khách hàng của ngân hàng.
Năng lực thẩm định, giám sát và xử lý tín dụng:
+ Năng lực thẩm định tín dụng trước khi cho vay là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo chất lượng tín dụng. Khi công tác thẩm định tốt thì sẽ loại trừ được khả năng sai lệch trong cung cấp thông tin của doanh nghiệp, đánh giá một cách chính xác năng lực tài chính của khách hàng từ đó cung cấp vốn cho khách hàng một cách hợp lý nhất. Việc làm tốt công tác thẩm định sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng lựa chọn một cách chính xác nhất để đầu tư vào dự án có hiệu quả mang lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng và cả cho ngân hàng.
+ Năng lực giám sát và xử lý tín dụng: Mục tiêu của giám sát tín dụng là kiểm tra xem khách hàng của ngân hàng có làm đúng như trong cam kết trong hợp đồng tín dụng không, hạn chế rủi ro tín dụng khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. Giám sát khách hàng để đảm bảo: tiền vay được sử dụng đúng mục đích cam kết, quá trình trả gốc và lãi đúng thời hạn và khối lượng được ghi từ trước, giám sát việc bảo quản, biến động của tài sản đảm bảo. Khi phát hiện khoản tiền vay khách hàng sử dụng có vấn đề hoặc tài sản bảo đảm có biến động mang tích chất bất lợi cho phía Ngân hàng thì cán bộ tín dụng phải nhanh chóng thông báo với lãnh đạo cấp trên đồng thời tìm ra phương án để ngăn chặn giúp bảo toàn vốn cho ngân hàng.
- Quy trình tín dụng: Đây là quy trình cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm mục đích bảo toàn vốn. Quy trình này bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình cho vay cho đến khi thu hồi được nợ.
Bước chuẩn bị cho vay bao gồm: khách hàng lập hồ sơ xin vay, ngân hàng căn cứ vào đó sẽ ra quyết định có cho vay hay không, bước này rất quan trọng là cơ sở để lượng định rủi ro trong quá trình cho vay. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào chất lượng công tác thẩm định đối tượng cho vay vốn, những quy định về điều kiện thủ tục cho vay của ngân hàng.
Kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm được nguồn vốn vay của mình có sử dụng đúng mục đích hay không, có cần phải điều chỉnh về khối lượng vốn vay hay không để hạn chế rủi ro tín dụng. Khi chọn lựa và áp dụng hiệu quả các hình thức kiểm tra sẽ tạo cơ sở để nâng cao chất lượng tín dụng.
Thu nợ và thanh lý nợ là khâu để ngân hàng tồn tại và phát triển được, bước này là kết quả cuối cùng của công tác cho vay do đó, bước này buộc cán bộ tín dụng phải tích cực trong công tác thu nợ, phải phát hiện ra những tình huống có thể xảy ra đối với khách hàng và nhanh chóng có các biện pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu được các rủi ro có thể xảy ra như nợ xấu từ đó nâng cao được chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Việc ngân hàng làm tốt các bước của quy trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho
ngân hàng bảo toàn được vốn, nâng cao được chất lượng tín dụng.
- Công tác tổ chức của ngân hàng: Trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng, các phòng ban phải sắp xếp hợp lý để bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ với nhau nhanh chóng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đồng thời theo dõi, quản lý được các khoản cho vay. Trong từng phòng, ban lại phải bố trí các cán bộ sao cho vừa có cán bộ có kinh nghiệm lại vừa có các cán bộ trẻ ít kinh nghiệm đan xen, qua đó vừa đảm bảo tính kế thừa, vừa bảo đảm tính phát huy. Trong quản lý nhân sự phải gắn rõ quyền hạn với trách nhiệm từng bộ phận, từng người để không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng.
- Chất lượng nhân sự: Con người là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động và trong hoạt động tín dụng cũng không phải ngoại lệ. Khi nền kinh tế càng phát triển, hệ thống ngân hàng càng phải biến đổi về chất, chất lượng ngày càng phải cao để đáp ứng kịp thời và có hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng nói chung và trong hoạt động tín dụng nói riêng. Khi tuyển chọn cán bộ không chỉ chú ý đến chất lượng chuyên môn như năng lực phân tích dự án đầu tư, đánh giá tài sản thế chấp, bảo đảm, giám sát quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng, hiểu biết kinh tế xã hội địa bàn do mình phụ trách mà còn phải xem xét đến tư cách đạo đức của cán bộ vì hoạt động tín dụng buộc cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc với môi trường tiền bạc nếu không có tư cách đạo đức tốt rất dễ dẫn đến sa ngã, gây thiệt hại cho ngân hàng.
- Thông tin tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng của các Ngân hàng rất đa dạng, phức tạp, từ doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp Cổ phần, doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân đến hộ gia đình; từ khu vực sản xuất vật chất đến các hoạt động dịch vụ, du lịch. Yếu tố đầu tiên mà các Ngân hàng dựa vào để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng, từ đó mà quyết định có cấp tín dụng hay không, là sự hiểu biết nhất định về khách hàng. Mức độ hiểu biết về khách hàng, phụ thuộc vào lượng thông tin thu thập được và xử lý hiệu quả các thông tin đó. Các thông tin đó bao gồm hai loại: Thông tin tài chính và thông tin phi tài chính. Thông tin tài chính phản ánh tình hình tài chính và do đó giúp xác định cụ thể khả năng hoàn trả của khách hàng, giúp các cán bộ tín dụng phân tích tính tổng của tài sản, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, điểm hoà vốn, dự toán thu chi tiền mặt, các thông tin này được phản ánh qua các báo cáo tài chính cả trong quá khứ và hiện tại, danh mục tài sản có thể dùng làm đảm bảo tín dụng, các bản kế hoạch và dự toán và các thông tin thông qua các Ngân hàng, các doanh nghiệp khác, các cơ quan quản lý, từ các phương tiện thông tin đại chúng đã có quan hệ, bài viết với khách hàng, thông tin từ trung tâm CIC của Ngân hàng Nhà nước... Đối với các khoản vay có đảm bảo thì cũng cần lưu ý đến khả năng thương mại của tài sản đảm bảo, dự báo trước diễn
biến giá cả tài sản đảm bảo trên thị trường. Còn thông tin phi tài chính là loại thông tin phản ánh về việc khách hàng có thiện chí hoàn trả khoản tín dụng hay không? đó là các thông tin có tính trực giác, nó được nhận biết trong quá trình tiếp xúc, phỏng vấn khách hàng. Đặc biệt, việc cán bộ tín dụng đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay giúp ích rất nhiều trong việc thu thập thông tin có tính chất định tính về khách hàng, không thể hiện thành con số cụ thể nhưng nó lại giúp hình dung khá dễ dàng về tình trạng hiện thời của khách hàng. Ví dụ như việc quan sát tình hình hoạt động ở văn phòng kho bãi, chú ý chỗ làm việc của nhân viên kế toán, văn phòng làm việc của nhân viên kế toán, tiếp xúc và kế cận trực tiếp với các lãnh đạo hiện tại.
Trên cơ sở những thông tin đó các Ngân hàng sẽ quyết định có cấp tín dụng cho khách hàng hay không? Và nhờ đó Ngân hàng có thể tăng cường thêm, như vậy sẽ quyết định đến tính an toàn của khoản vay. Thực hiện tốt công tác thu thập và xử lý thông tin, Ngân hàng nhất định sẽ giảm được rủi ro tín dụng tới mức có thể chấp nhận được.
- Công nghệ phục vụ cho hoạt động tín dụng: Ngày nay, do sự tác động của khoa học công nghệ làm cho con người giảm đi sự làm việc thủ công, ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó chính nhờ có sự đổi mới trong công nghệ ngân hàng bao gồm cả trang thiết bị phục vụ cho công tác tín dụng và cả trong phương pháp quản lý từ đó nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, ngoài ra còn giúp cho cán bộ ngân hàng nắm bắt nhanh chóng mọi nhu cầu thực tế của khách hàng, hay từ việc áp dụng các phương pháp trong hoạt động tín dụng tiên tiến cũng góp phần thúc đẩy chất lượng tín dụng của ngân hàng ngày càng được cải thiện.
- Hoạt động của Hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ với hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại.
+ Hệ thống kiểm soát nội bộ: Hệ thống kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xây dựng phù hợp theo Quy định tại thông tư này và được tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được
yêu cầu đề ra. Hoạt động của Hệ thống kiểm soát nội bộ là một phần không thể tách rời các hoạt động hằng ngày của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Kiểm soát nội bộ được thiết kế, cài đặt, tổ chức thực hiện ngay trong mọi quy trình nghiệp vụ tại tất cả các đơn vi, bộ phận của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài dưới nhiều hình thức như: phân cấp uỷ quyền rõ ràng, minh bạch, bảo đảm tách bạch giữa nhiệm vụ, quyền hạn của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức tín dụng; quy định về hạn mức rủi ro cụ thể đối với từng cá nhân, bộ phận trong thực hiện việc giao dịch; quy trình thẩm định, chấp thuận và duyệt cho phép thực hiện giao dịch, bảo đảm một quy trình nghiệp vụ phải có ít nhất 02 cán bộ tham gia, một người thực hiện giao dịch và một người kiểm soát giao dịch, không có cá nhân nào có thể một mình thực hiện và quyết định một quy trình nghiệp vụ, một giao dịch cụ thể ngoại trừ những giao dịch trong hạn mức được tổ chức tín dụng cho phép phù hợp với quy định của pháp luật. Đây là một trong những công cụ quan trọng nhất trong công tác quản lý, điều hành của bộ máy điều hành Ngân hàng. Hoạt động này giúp Ban điều hành điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài.
+ Kiểm toán nội bộ: Kiểm toán nội bộ là việc rà soát, đánh giá độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm soát nội bộ; đánh giá độc lập về tích thích hợp và tuân thủ quy định, chính sách nội bộ, thủ tục, quy trình đã được thiết lập trong trong tổ chức tín dụn, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài; đưa ra kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của các hệ thốn, quy trình, quy định, góp phần bảo đảm tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật. Kiểm toán nội bộ nhằm mục tiêu: hoạt động an toàn và hiệu quả của tổ chức tín dụng; rà soát đánh giá độc lập khách quan về mức độ đầy đủ, tích thích hợp, hiệu lực và hiệu quả của Hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ; phát hiện ngăn chặn hành vị vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và hoạt động của tổ chức tín dụng; đam bảo an toàn bảo mật thông tin và hoạt động liên tục của hệ thống thông tin hoạt đông nghiệp vụ.
Như vậy hệ thống kiểm soát nội bộ và bộ phận kiểm toán nội bộ cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của hoạt động tín dụng.
1.3.4.2. Nhân tố từ phía khách hàng.
Kỳ vọng đầu tư quyết định nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp đối với ngân hàng, kỳ vọng đó càng lớn thì ngân hàng có cơ sở để mở rộng cho vay. Sự kỳ vọng đầu tư của khách hàng phụ thuộc vào các lợi ích mà khách hàng muốn tìm kiếm như lợi nhuận hay mở rộng sản phẩm, khách hàng.
Khả năng của khách hàng trong việc đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn của ngân hàng. Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng mà ngân hàng đưa ra cho khách hàng bao gồm:
- Năng lực thị trường của khách hàng: Năng lực này thể hiện ở thị phần sản phẩm mà khách hàng đang cung cấp trên thị trường, chất lượng sản phẩm mà khách hàng cung cấp trên thị trường, thương hiệu mà khách hàng có được, tương lai về sản phẩm hay ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, khách hàng trung thành, khả năng cung cấp dịch vụ, hệ thống đại lý tiêu thụ sản phẩm, vị trí của khách hàng trong thị trường bao gồm cả thị trường trong nước và Quốc tế.
Năng lực thị trường càng cao thì nhu cầu vốn đầu tư của khách hàng càng lớn đây là một trong những cơ sở để ngân hàng xem cho vay.
- Năng lực sản xuất của khách hàng: Năng lực này thể hiện rõ ở toàn bộ giá trị tài sản mà khách hàng đưa ra để sản xuất kinh doanh, biểu hiện cụ thể là các công nghệ mà khách hàng đưa ra sản xuất hiện đại hay lạc hậu, hoạt động đầu tư của khách hàng là cơ sở để ngân hàng tính toán đến tính khả thi của dự án, liên quan đến nhu cầu vốn mà khách hàng cần vay của ngân hàng.
- Năng lực tài chính của khách hàng: Năng lực này thể hiện ở cơ cấu vốn của khách hàng, khả năng tự tài trợ của khách hàng, các chỉ tiêu tài chính của khách hàng: Như chỉ tiêu khả năng thanh toán, chỉ tiêu tài chính về năng lực hoạt động, chỉ tiêu về lợi nhuận và phân phối lợi nhuận. Khi cho vay thì buộc ngân hàng phải