Sự Cần Thiết Phải Nâng Cao Chất Lượng Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại.


khách hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng. Khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm, sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.

- Căn cứ theo phương thức cho vay:

+ Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực

hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.

+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định

và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất đình.

+ Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.

+ Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.

+ Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

+ Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.

+ Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội Chi Nhánh Việt Trì - 4

+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng


Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ

thanh toán.

- Căn cứ vào mức độ rủi ro.

+ Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.

+ Tín dụng cần chú ý: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như:

hàng chậm tiêu thụ, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,…

+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn

ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn.

+ Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ kém, tài sản đảm

bảo trị giá thấp, …

- Phân loại khác.

+ Theo ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp,…)

+ Theo đối tượng tín dụng (Tài sản cố định, tài sản lưu động,…).


1.3. Chất lượng tín dụng Ngân hàng thương mại.

1.3.1 Khái niệm.

Hiện nay, các ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của mình đảm bảo duy trì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng là một khái niệm được các nhà kinh tế tiếp cận theo các cách nhìn khác nhau nhưng theo quan niệm chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng thì chất lượng tín dụng của ngân hàng được hiểu như sau:

- Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng, phù hợp với sự

phát triển kinh tế xã hội, đồng thời đảm bảo sự tồn tại, phát triển của ngân hàng.

Qua khái niệm này ta có thể thấy rằng: Khách hàng, sự phát triển kinh tế xã hội, ngân hàng là ba nhân tố được đưa vào xem xét khi đánh giá về chất lượng hoạt động tín dụng.

- Chất lượng tín dụng đứng trên góc độ ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở giới hạn, mức độ, phạm vi tín dụng phải phù hợp với khả năng thực lực của


ngân hàng, phải đảm bảo tính cạnh tranh, tỷ lê nợ xấu đảm bảo đúng quy định của nhà nước và hợp lý, dư nợ ngày càng gia tăng, hoạt động của ngân hàng ngày càng có lãi.

Như vậy, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh sự thích nghi của ngân hàng với sự thay đổi môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như: Nợ xấu, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí nghiệp vụ, chi phí tổng thể và lãi suất… Chất lượng tín dụng không tự nhiên sinh ra mà nó là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động giữa những con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung. Do đó, để có chất lượng tín dụng cần có sự quản lý chặt chẽ của các ngân hàng.

- Chất lượng tín dụng đứng trên giác độ khách hàng: Quá trình tìm hiểu khách hàng sẽ làm cho ngân hàng đánh giá chính xác nhu cầu tín dụng của khách hàng, đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý nhất về vốn của họ. Chất lượng tín dụng của khách, đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý nhất về vốn cho họ. Chất lượng tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng, chất lượng tín dụng ngân hàng tốt đối với khách hàng phải phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn trả nợ hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.

- Chất lượng tín dụng xét từ giác độ kinh tế, xã hội: Nhờ có hoạt động tín dụng của ngân hàng nên góp phần thay đổi nền kinh tế, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Tín dụng góp phần tích cực vào việc phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, từ đó góp phần vào giải quyết công ăn việc làm, khai thác một cách tốt nhất các nguồn lực của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất từ đó làm hài hoà giữa tăng trưởng tín dụng và phát triển kinh tế.


1.3.2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng Thương mại.

1.3.2.1 Chất lượng tín dụng đối với sự phát triển của ngân hàng.

Chất lượng tín dụng tốt là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của ngân hàng, tạo nên sự tồn tại lâu dài của ngân hàng, bởi vì với chất lượng tín dụng tốt sẽ mang đến cho ngân hàng một nguồn khách hàng truyền thống và trung thành, có điều kiện để thêm vốn cung ứng cho quá trình kinh doanh. Chất lượng tín dụng tốt sẽ tăng khả năng cạnh tranh của ngân, giảm được sự chậm trễ, chi phí nghiệp vụ, quản lý và các chi phí gián tiếp khác trên cơ sở có một nguồn tài chính vững chắc tạo cho ngân hàng một sức mạnh trong quá trình phát triển.

Như vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng là sự cần thiết

khách quan tạo cho ngân hàng có thể tồn tại và phát triển một cách bền vững.


1.3.2.2 Chất lượng tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội

- Chính nhờ có sự hoạt động tốt của hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển. Một khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín dụng, với một khối lượng tiền như trước có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện giảm lượng tiền trong lưu thông giảm được tình trạng lạm phát.

- Ngân hàng là tổ chức tài chính trung gian có chức năng làm cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, một khi chất lượng tín dụng tốt sẽ giải quyết được tình trạng vốn tiếp cận đến những nơi có hiệu quả vốn cao, tạo ra một khối lượng tiền lớn từ đó phục vụ tốt cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ làm cho đồng vốn trong nền kinh tế có hiệu quả hơn, tốt hơn.

- Tín dụng là công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện các chủ trương phát triển kinh tế xã hội đúng định hướng của mình. Đồng thời, cũng thông qua công tác xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động từ đó tạo thu nhập cho người lao động, từ đó góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các ngành, vùng miền trong cả nước làm cho ổn định kinh tế xã hội.


- Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo điều đó đồng nghĩa với việc thoả mãn được nhu cầu về vốn cho khách hàng cũng như thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ sẽ góp phần vào việc vốn đến được những nơi cần có vốn tránh tình trạng cho vay nặng lãi cho người dân.


1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng Thương mại.

Ðể thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng của mình, các ngân hàng không những chỉ dựa vào các chỉ tiêu định tính mà cần phải xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu định lượng. Trên cơ sở đó, ngân hàng mới có thể có cơ sở tin cậy để phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng của ngân hàng mình, qua đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng tín dụng cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng, của xã hội đối với sản phẩm tín dụng.

Để đánh giá chất lượng tín dụng, thông thường người ta đánh giá chất lượng

tín dụng theo các tiêu thức sau:

* Quy mô dư nợ: Chỉ tiêu này cũng là một trong những chỉ tiêu đo lường

chất lượng tín dụng

Tổng dư nợ

=

Tín dụng

Dư nợ tín

+

dụng đầu kỳ

Doanh số cho

-

vay trong kỳ

Doanh số thu

nợ trong kỳ


Doanh số cho vay trong kỳ phản ánh lượng vốn mà ngân hàng giúp cho doanh nghiệp trong việc đầu tư, cải tiến xây dựng công nghệ mới, mở rộng sản xuất hay nâng cao chất lượng sản phẩm. Con số và tốc độ cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của việc đầu tư của ngân hàng mở rộng hay thu hẹp trong kỳ.

Doanh số thu nợ trong kỳ phản ánh lượng vốn đã được hoàn trả cho ngân hàng trong kỳ. Doanh số thu nợ phản ánh hai trạng thái trái ngược nhau có thể khách hàng trả nợ đúng thời hạn do khách hàng có nguồn để trả nợ đúng hợp đồng hoặc có thể ngân hàng nhận thấy những dấu hiệu khách hàng không thực hiện đúng hợp đồng hay làm ăn thua lỗ không có khả năng thanh toán, vì thế để tránh tình


trạng mất vốn thì ngân hàng đẩy nhanh công tác thu hồi và trong cả hai trường hợp

này thì doanh số thu nợ càng cao là càng tốt.

Tổng dư nợ đạt cao thể hiện ngân hàng có chính sách tín dụng tốt để phục vụ khách hàng và đồng thời cũng có chính sách marketinh tốt. Tuy nhiên, không phải bất cứ thời điểm nào việc tăng doanh số cho vay là tốt và việc giảm doanh số cho vay là xấu. Bởi vì, trong mỗi thời kỳ khác nhau tốc độ phát triển kinh tế, định hướng phát triển các ngành nghề cũng khác nhau vì thế ngân hàng phải nhạy bén để thay đổi hướng đầu tư cho phù hợp và hiệu quả.

* Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ: xác định bằng dư nợ cho vay cuối kỳ trừ số dư nợ đầu kỳ và chia cho số dư nợ đầu kỳ. Chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng cho thấy khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, khả năng cạnh tranh và uy tín của ngân hàng trong hoạt động tín dụng, do vậy nó là chỉ tiêu cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng trong mối liên hệ với chất lượng tín dụng.

* Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ: Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4,5 quy định tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 sửa đổi bổ sung Quyết định số 493).

Theo Quyết định này, tổ chức tín dụng khi chưa xây dựng được Hệ thống

xếp hạng tín dụng nội bộ thì thực hiện phân loại nợ như sau:

a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:

- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn;

- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại;

b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;


- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);

c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản này;

- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng

trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;

d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn

trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;

- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá

hạn hoặc đã quá hạn;

- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;

Cho vay về nguyên tắc là phải dựa trên sự hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn, đây là cơ sở để đánh giá chất lượng cho vay. Một món vay không thể hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn như trong hợp đồng mà không đưa ra lý do chính đáng thì phải chuyển sang nợ xấu. Những khoản nợ xấu không được hưởng lãi suất bình thường như ghi trong hợp đồng mà phải chịu phạt với lãi suất cao hơn.


Những khoản nợ xấu do nhiều nguyên nhân khác nhau như do làm ăn thua lỗ, sử dụng vốn sai mục đích đã ghi trong hợp đồng tín dụng, hay cũng có thể do chây lì…Vì những nguyên nhân này đã làm cho ngân hàng có thể bị mất vốn, bị chiếm dụng vốn, như vậy nợ xấu phát sinh là tất yếu không tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường.

Một ngân hàng được xem là một ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt khi tỷ lệ xấu của nó nhỏ hơn hoặc bằng 5% và ngược lại lớn hơn 5% là ngân hàng có chất lượng tín dụng không tốt.

Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu này để đánh giá thì không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả cao và chính xác do tỷ lệ này bị tác động rất lớn của các hoạt động cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn theo đúng quy định.


* Chỉ tiêu tốc độ chu chuyển vốn tín dụng (vòng quay vốn tín dụng):



Vòng quay vốn tín dụng trong năm =

Doanh số thu trong năm



Dư nợ bình quân trong năm



Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn của ngân hàng được sử dụng cho vay mấy lần trong một năm. Chỉ tiêu này càng lớn có nghĩa là nguồn vốn của ngân hàng đã được chuyển nhanh tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao sẽ làm cho chi phí của ngân hàng tăng lên do lãi thu về không đủ bù đắp những chi phí phát sinh từ những khoản tín dụng trên.

* Thu nhập ròng từ lãi cho vay:

Thu nhâp ròng từ lãi cho vay = Thu từ lãi cho vay - Chi từ lãi cho vay

Chênh lệch này phản ánh quy mô sinh lời từ hoạt động cơ bản của ngân hàng là hoạt động huy động vốn cho vay và đầu tư. Chênh lệch càng lớn, thu nhập ròng của ngân hàng càng cao. Ở đây, chi từ lãi cho vay bao gồm cả chi từ huy động vốn

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 08/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí