Tác Động Của Tín Dụng Đối Với Sự Tồn Tại Và Phát Triển Của Ngân Hàng Thương Mại.


với khách hàng vay để đảm bảo thu hồi vốn theo kế hoạch định sẵn, nhằm đảm bảo

khả năng thanh toán nợ cho các chủ nợ khác của Ngân hàng.

- Tín dụng có tính tạm thời: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tình trạng thừa thiếu vốn tạm thời rất thường xuyên xảy ra. Để đảm bảo hiệu quả cho công tác sử dụng vốn, các đơn vị kinh tế sẽ phải nhờ đến Ngân hàng như là nơi để gửi tiền vào lấy lãi khi nguồn vốn dư thừa và là nơi cung cấp kịp thời nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh trong trường hợp đơn vị rơi vào tình trạng thiếu vốn.


1.2.3. Các nguyên tắc tín dụng

- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định: Các khoản tín dụng của Ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản Ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả lãi lẫn gốc như đã cam kết. Do vậy Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện tồn tại và phát triển của Ngân hàng.

- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo đúng mục đích được thỏa thuận với Ngân hàng, không trái với những quy định của pháp luật và các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các Ngân hàng, trên cơ sở đó mỗi Ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng, cụ thể hơn. Mục đích tài trợ được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng đảm bảo Ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái pháp luật và việc tài trợ đó là phù hợp với chính sách của Ngân hàng.

- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay chứng minh cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ cho Ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với tài sản hình thành của người vay. Do vậy, nếu xét thấy không hoặc kém an toàn, Ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

1.2.4. Vai trò của tín dụng.

1.2.4.1. Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân Đội Chi Nhánh Việt Trì - 3

Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển:

Tín dụng cho đến thời điểm hiện nay vẫn giữ chức năng kinh tế hàng đầu của các Ngân hàng Thương mại. Bất kỳ một tổ chức cá nhân nào muốn hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, đòi hỏi đều phải có vốn kinh doanh (Vốn cố định và vốn lưu động) và các nguồn vốn này đồng thời phải tồn tại dưới ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông. Trong thực tế, sản xuất kinh doanh không phải lúc nào doanh nghiệp cũng cần một lượng vốn bình quân như nhau, nên hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời là tình trạng thường xuyên xảy ra. Từ đó tín dụng đã góp phần điều tiết nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.

Thứ nhất: Tín dụng Ngân hàng đóng góp vai trò quan trọng trong việc giải quyết vốn ứ đọng ở nơi này bù đắp sự thiếu hụt tạm thời ở nơi khác. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng sản xuất thì nhu cầu về vốn là rất lớn và là mối quan tâm hàng đầu được đặt ra đối với các nhà quản lý của các doanh nghiệp. Bởi lẽ để đẩy mạnh tiến độ phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà các doanh nghiệp phải biết tận dụng những dòng chảy khác của vốn trong xã hội. Tín dụng Ngân hàng lúc này sẽ đóng vai trò là trung tâm đáp ứng những nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư và phát triển. Như vậy, tín dụng vừa góp phần đẩy mạnh tốc độ tập trung và tích lũy vốn cho nền kinh tế, vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian huy động vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất. Trong phạm vi đó, tín dụng giữ vai trò điều hòa vốn mà không làm tăng thêm hoặc giảm đi tổng nhu cầu trong nền kinh tế.

Thứ hai: tín dụng Ngân hàng góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được giao quyền tự chủ trong xác định ba vấn đề kinh tế cơ bản là: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào? và sản xuất phục vụ cho đối tượng khách hàng nào? Nghĩa là doanh nghiệp được chủ động lựa chọn lĩnh vực đầu tư, quy mô đầu tư theo quy định của pháp luật và đem lại hiệu quả kinh tế cao


nhất cho doanh nghiệp. Nhưng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, thì một vấn đề nữa cần phải được đặt ra đó là: cần phải tạo ra sự cân đối trong cơ cấu kinh tế giữa các vùng, lãnh thổ, giữa các ngành và trong nội bộ từng ngành, nhất là ở các ngành mũi nhọn và ngành kém phát triển nhưng cần thiết cho nền kinh tế. Thông qua chính sách tín dụng, lãi suất sẽ được sử dụng như là một công cụ để điều tiết nhu cầu đầu tư cho phát triển, từ đó góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế chung.

Thứ ba: tín dụng Ngân hàng tác động đến chế độ hoạch toán kinh tế, là công cụ để bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín dụng phải chịu chi phí trả lãi nên phải tính toán hiệu quả chi phí sản xuất: đúng, đủ, kịp thời và chính xác nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng vòng quay vốn để tạo ưu thế cho bản thân doanh nghiệp mình trong cạnh tranh, sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chung của cả nền kinh tế. Cũng vì thế mà các ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn bỏ ra cao thì sẽ thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư vào do đó cơ cấu kinh tế sẽ bị dịch chuyển. Thêm vào đó, trong điều kiện hiện nay cùng với sự phân công hợp tác quốc tế ngày một sâu rộng thì quá trình điều tiết vốn không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà hình thành nên các quan hệ tín dụng quốc tế.

+ Tín dụng Ngân hàng góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Đây là nguồn vốn do các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài chuyển vào trong nước đầu tư trực tiếp tạo ra hàng hóa và dịch vụ. Đây là nguồn vốn rất lớn và quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế trong nước, giúp các doanh nghiệp trong nước bổ sung nguồn vốn, đầu tư tăng năng lực sản xuất, tăng cường chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm và nâng cao trình độ quản lý từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng xuất khẩu và thu ngân sách.

+ Thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, nền kinh tế trong nước sẽ thu hút được một nguồn vốn lớn từ các khoản đi vay nước ngoài: đây là nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế lớn trên thế giới: IMF, ADB, WB...

+ Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các doanh nghiệp, tổ chức trong nước

và các doanh nghiệp tổ chức nước ngoài thì yếu tố không thể thiếu là hoạt động của


các Ngân hàng. Thông qua các nghiệp vụ như: nghiệp vụ bảo lãnh, nghiệp vụ L/C… ngân hàng sẽ đóng vai trò là người trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và phát triển.

Tín dụng góp phần ổn định giá cả và tiền tệ.

Với chức năng tập trung, tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng đã trực tiếp giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, là lượng tiền mà nếu không được huy động và sử dụng kịp thời có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt đến tình hình lưu thông tiền tệ - làm mất cân đổi trong quan hệ hàng - tiền và hệ thống giá cả bị biến động là điều không thể tránh khỏi. Do đó, một trong những biện pháp được xem là quan trọng trong việc giúp toàn bộ nền kinh tế nói chung giảm thiểu được những hậu quả do lạm phát gây ra là thông qua việc tác động vào hoạt động tín dụng. Mặt khác tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực điều tiết giảm việc sử dụng tiền mặt trong lưu thông, một mặt tín dụng còn góp phần giảm các tiêu cực phát sinh mặt khác giúp cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chức năng kiểm soát lượng tiền trong lưu thông, giảm bớt những hoạt động kinh tế ngầm.

Thông qua công cụ lãi suất, tín dụng thực hiện được chức năng điều tiết đầu tư trong nước thu hút đầu tư nước ngoài và thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.

Tín dụng ngân hàng tác động tích cực đến quá trình cải thiện và nâng cao đời

sống của dân cư; đặc biệt là dân cư nông thôn.

Ðịnh hướng đầu tư của tín dụng theo hướng kiên trì thực hiện nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi, đảm bảo lợi ích vật chất của người dân, góp phần cải tiến cơ cấu và lượng tiêu dùng trong dân cư và đặc biệt là dân cư nông thôn, tạo ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và quá trình tái sản xuất lao động, thoả mãn mọi nhu cầu vật chất, văn hoá, giáo dục, y tế của cư dân, cải thiện các quan hệ xã hội thông qua việc cho vay qua các tổ chức đoàn thể xã hội, không những thế ngân hàng hiện nay còn đưa ra rất nhiều loại sản phẩm mới: sản phẩm “ô tô xịn”, sản phẩm “nhà mới”, sản phẩm “cho vay du học”, v.v, đã giúp cho người tiêu dùng chủ dộng hơn và sớm


thực hiện được những nhu cầu tiêu dùng cũng như nhu cầu sinh hoạt của mình, và trong một tương lai không xa, các sản phẩm này sẽ còn được áp dụng với cả những dân cư khu vực nông thôn, dân cư có thu nhập thấp, trên cơ sở đó giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội.

1.2.4.2. Tác động của tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.

- Tín dụng ngân hàng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình cạnh tranh. Tín dụng ngân hàng có chất lượng tốt sẽ tạo thêm được các nguồn thu từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bằng sự đa dạng của sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh tốt về ngân hàng.

- Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng bởi chất lượng tín dụng ngân hàng tốt cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành, trên cơ sở đó tạo ra những khoản lợi nhuận bổ sung vào nguồn vốn cho ngân hàng.

- Tín dụng ngân hàng góp phần củng cố các mối quan hệ xã hội trong ngân hàng thông qua việc tạo ra điều kiện làm việc tốt nhất, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên, tạo điều kiện để họ yên tâm học tập và công tác.

1.2.4.3. Vai trò của tín dụng đối với người được cấp tín dụng.

Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh luôn là một yếu tố khốc liệt mà các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được, phải đương đầu để làm tốt được điều đó, mỗi doanh nghiệp không những phải biết phát huy, sử dụng hợp lý những nguồn lực sẵn có mà còn phải biết tận dụng những nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là nguồn lực về vốn. Tín dụng ngân hàng đã giúp các doanh nghiệp giải quyết tốt bài toán nan giải về vốn của mình. Hiện nay để có thể thực hiện được các quyết định đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng được đó là: nguồn vốn tự có (hay vốn cổ phần), hoặc vốn đi vay. Chi phí vốn


bình quân của doanh nghiệp trong trường hợp sử dụng cả hai loại nguồn vốn này được tính theo công thức:

Ko = Ke * We + Kd * Wd

Trong đó:

Ko: chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp.

Ke: giá vốn (chi phí vốn) cổ phần thể hiện bằng mức lợi nhuận mà người sở

hữu cổ phần được hưởng với tư cách là người góp vốn.

Kd: chi phí sử dụng vốn vay (lãi suất của khoản tiền vay)

We, Wd: tương ứng là tỷ lệ sử dụng của vốn cổ phần và vốn vay của doanh

nghiệp.

Lãi suất tiền vay được tính vào chi phí để khấu trừ thuế, khác với chi phí vốn cổ phần được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Do vậy nếu sử dụng mức vốn vay ở một mức tỷ lệ hợp lý (thường là dưới 50% tổng vốn đầu tư) sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được đòn bẩy tài chính do việc vay vốn đem lại thông qua phần thuế được khấu trừ từ chi phí sử dụng vốn vay. Tuy vậy, đối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, không phải lúc nào và với số lượng bao nhiêu doanh nghiệp cũng được đáp ứng và nếu có được đáp ứng thì khi vượt tỷ lệ cho phép nó sẽ tạo ra sự tăng thêm của chi phí vốn làm cho hiệu quả đầu tư giảm đi. Do vậy, tín dụng ngân hàng sẽ đặt ra yêu cầu đối với các doanh nghiệp là phải xây dựng cho mình một cơ cấu hợp lý nhằm tối ưu hoá các nguồn lực, đem lại hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, Ngân hàng nhà nước đã có quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay đối với các khách hàng, theo quyết định này thì mức cho vay đối với các doanh nghiệp không chỉ căn cứ vào tỷ trọng vốn vay trong tổng số vốn kinh doanh mà còn căn cứ vào hiệu quả của phương án kinh doanh. Ðiều đó có nghĩa là vốn tín dụng Ngân hàng giúp các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp cổ phần hóa giảm chi phí vốn, trên cơ sở đó phấn đấu giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh trên thị truờng.

Tín dụng ngân hàng bổ sung vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng

hoạt động sản xuất kinh doanh. Như đã nói ở phần trên, vốn tín dụng ngân hàng là


phần không thể thiếu đối với việc giải quyết các thiếu hụt tạm thời tại các doanh nghiệp hiện nay. Tín dụng ngân hàng không dừng lại ở vai trò bổ sung nữa mà đã dần trở thành nguồn vốn chủ yếu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhờ có tính linh hoạt của nó.

Tín dụng ngân hàng giúp các doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội làm ăn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, thông suốt quá trình lưu thông và nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng còn giúp các doanh nghiệp trang trải các chi phí về đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị truờng.

Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh

nghiệp hiện nay.

Cũng xuất phát từ vai trò thúc đẩy khả năng cạnh tranh của mình, tín dụng ngân hàng đã tạo ra nhu cầu tập trung vốn là cơ sở để hình thành các công ty cổ phần. Ðây là một loại hình doanh nghiệp dựa trên cơ sở góp vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra phong cách làm việc, quản lý mới trong hệ thống doanh nghiệp, tránh tình trạng trì trệ gây ra những thất thoát lãng phí lớn cho xã hội.

Đối với người tiêu dùng thì tín dụng ngân hàng sẽ giúp họ lựa chọn thời điểm, chỉ tiêu tốt nhất, giúp họ thoả mãn tốt nhất những nhu cầu phát sinh. Cũng giống như các doanh nghiệp, người tiêu dùng không phải lúc nào cũng đáp ứng tất cả các nhu cầu của mình và nếu như không có tín dụng ngân hàng họ sẽ phải chờ đến khi có đủ khả năng thì nhu cầu đã phát sinh mới được đáp ứng, như vậy nghĩa là nhu cầu của họ đã không được đáp ứng một cách kịp thời.

Như ở trên ta đã thấy được những vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng đối với bản thân ngân hàng, đối với khách hàng và những đóng góp của nó đối với hoạt động của mỗi quốc gia. Các tác động đến các chủ thể trên không phải lúc nào cũng tách bạch rõ ràng, riêng rẽ mà nó có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy để có thể phát huy được hết vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng, thì chúng ta cần xem xét chúng trong mối tương quan với các chủ thể trên.


1.2.5. Các loại hình tín dụng Ngân hàng thương mại.

- Căn cứ theo thời hạn cho vay:

+ Cho vay ngắn hạn: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn dưới một năm và mục đích sử dụng chủ yếu là để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán tiền hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương,…

+ Cho vay trung hạn: Đây là hìn thức cấp tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm và thường để đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc và thời gian khấu hao thường không quá dài để có thể hoàn trả vốn đúng hạn cho Ngân hàng.

+ Cho vay dài hạn: Là khoản cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thường sử dụng để xây nhà xưởng, đầu tư dây chuyền công nghệ với những dự án sản xuất lớn có thời gian thu hồi vốn dài.

- Căn cứ theo khách hàng vay vốn:

+ Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các Ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.

+ Cho vay các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.

+ Cho vay cá nhân.

- Căn cứ theo mục đích sử dụng khoản vay:

+ Cho vay nhằm mục đích phục vụ sản xuất – kinh doanh.

+ Cho vay nhằm mục đích phục vụ đời sống tiêu dùng.

- Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:

+ Cho vay không đảm bảo: là loại hình cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng, đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, quản trị có hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.

+ Cho vay có bảo đảm: Là loại hình cấp tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp hay cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với các

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 08/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí