Đối với các làng nghề, sự lãnh đạo và hỗ trợ trực tiếp nhất là Sở Khoa học- công nghệ và Môi trường. Cơ quan này có trách nhiệm theo dõi và quản lý các làng nghề về mặt kỹ thuật, giúp các làng nghề ứng dụng công nghệ mới.Vì vậy cần tăng cường năng lực của các Sở Khoa học- công nghệ và Môi trường của các tỉnh để có thể quản lý, tổ chức và triển khai các hoạt động nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên việc ứng dụng khoa học công nghệ cũng phải phù hợp với sự phát triển của mỗi làng nghề như nguồn nguyên liệu hiện có, khả năng tài chính và với cách tổ chức sản xuất kinh doanh để đem lại năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao, chất lượng sản phẩm tốt, giá thành hạ, đồng thời không tạo sự căng thẳng trong việc dôi dư lao động và hạn chế đến mức thấp nhất sự ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới phải được thực hiện kết hợp với kỹ thuật công nghệ truyền thống, nhằm tạo nên một hệ thống kỹ thuật linh hoạt thúc đẩy nhau phát triển, đẩm bảo cho các sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường .
* Tăng cường đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, nâng cao trình độ văn hoá và trình độ chuyên môn của người lao động qua việc mở các lớp huấn luyện, đào tạo tại chỗ ngắn ngày theo chương trình phù hợp với công nghệ được chuyển giao,nhằm tạo cho người lao động có đủ trình độ để tiếp thu và làm chủ được công nghệ mới. Thay đổi nép nghĩ và cách làm truyền thống của người sản xuất , tạo điều kiện cho họ tiếp cận với trang thiết bị và công nghệ hiện đại, để họ nhân thức được rằng đổi mới công nghệ là con đường để tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường.
* Tạo lập môi trường pháp lý cho sự liên kết giữa khoa học công nghệ với sản xuất kinh doanh. Đó là việc ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách, hệ thống các quy định đồng bộ nhằm khuyến khích các đề tài nghiên cứu ứng dụng tién bộ kỹ thuật và các dự án chuyển giao công nghệ,khuyến khích các hoạt động tư vấn dịch vụ,cung cấp thông tin về đổi mới công nghệ cho các làng nghề.
* Kết cấu hạ tầng.
* Đối với hệ thống giao thông
- Đẩy mạnh việc khảo sát và quy hoạch phát triển đồng bộ hệ thống giao thông trong các làng nghề và ngoài làng nghề nhằm đảm bảo sự lưu thông hàng hoá giữa các làng nghề và các địa phương.
Có thể bạn quan tâm!
- Tình Hình Sử Dụng Các Công Cụ Cạnh Tranh Của Công Ty .
- Định Hướng Xuất Khẩu Hàng Thủ Công Mỹ Nghệ Của Đảng Và Nhà Nước
- Tham Gia Các Hội Chợ Triển Lãm, Quảng Bá Sản Phẩm .
- Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản - 11
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
- Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng mới với việc cải tạo, duy trì và bảo dưỡng hệ thống đường xá hiện có. Cần nâng cấp chất lượng đường giao thông liên huyện, liên xã và các đường nối với các tụ điêm kinh tế, dịch vụ và thương mại.
- Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và địa phương cùng việc huy động đóng góp trực tiếp, tại chỗ của dân cư và các doanh nghiệp , huy động sự đóng góp của các thành phần kinh tế…theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng đầu tư.
* Với hệ thống điện.
Những năm gần đây, hệ thống điện nông thôn đã được đầu tư và phát triển khá nhanh về phạm vi, đối tượng, lĩnh vực phục vụ cũng như lượng điện cung ứng. Sự phát triển nay đã tạo ra những bước tiến mới trong phát triển sản xuất thủ công mỹ nghệ. Tuy vậy, nó vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như:
- Mạng lưới điện chắp vá, không đảm bảo các yếu tố về kinh tế và kỹ thuật, do vạy gây ra sụ thiếu an toàn và tổn thất điện năng.
- Vốn cho xây dựng và cải tạo mạng lưới điện còn nhỏ hẹp, không đủ để đáp ứng nhu cầu củ sự phát triển
- Giá bán điện còn thể hiện sự bất hợp lys, giá điện ở nông thôn cao hơn thành thị, trong khi thu nhập lại thấp hơn do vậy làm hạn chêsản xuất phát triển .
Từ các hạn chế trên,trong những năm tới, để tiếp tục hoàn thiện và mở rộng hệ thống điện đến tận các làng nghề cần có những hoạt động theo hướng sau
- Về kỹ thuật: cần hoàn thiện hệ thống các trạm hạ thế, đường dây tải điện, đảm bảo cung cấp nguồn điện ổn định và có chất lượng đến tận các hộ sản xuất và các doanh nghiệp. Nguồn tài chính để hoàn thiện hệ thống này cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước , nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế.
- Về tổ chức quản lý: nên có sự kết hợp quản lý giữa tư nhân và ngành điện. Tư nhân cũng có quyền quản lỹ và bán điện theo gia quy định của Nhà nước . còn giá bán điện cho các hộ sản xuất và các doanh nghiệp cần xem xét và điều chỉnh thích hợp sao cho giá đó sẽ là điều kiện kích thích sản xuất và các cơ sở sản xuất sử dụng điện thay thế các nguồn năng lượng gây ô nhiễm môi trường.
* Đối với hệ thống thông tin liên lạc: đặc điểm của hệ thống thông tin liên lạc là vốn đầu tư
lớn và chủ yếu là đầu tư của Nhà nước , đồng thời các hoạt động tổ chức , quản lý dịch vụ này đều thông qua các doanh nghiệp Nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của sản xuất , đời sống văn hoá của người dân thì hệ thống này cần được đầu tư nhiều hơn nữa.
- Cần tăng cường đầu tư cho việc nâng cấp công trình, đổi mới thiết bị kỹ
thuật của các trung tâm bưu điện, liên lạc ở các huyện, thị trấn, trạm khu vực.
- Các cấp chính quyền địa phương và các hiệp hội ngành nghề cần có sự hỗ trợ trong việc cug cấp các thông tin về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, đặc biệt là các thông tin về công nghệ và thị trường, để giúp các doanh nghiệp và các hộ sản xuất nâng cao kiến thức và nắm bắt kịp thời những thông tin về kinh tế thị trường, điều chỉnh sản xuất theo yêu cầu của thị trường
* Đối với hệ thống cấp thoát nước:
Tình trạng yếu kém và xuống cấp của hệ thống cấp thoát nước là một thực tế trong các làng nghề gây thiệt hại cho sản xuất và ô nhiễm môi trường. Vì vậy phải tiến hành quy hoạch và xâydựng các hệ thống công trình kết cấu hạ tầng về cấp thoát nước, xử lý chất thải,giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Để làm tốt việc này, trước hết tăng cường tuyên truyền giáo dục ý thức của người dân và doanh nghiệp về quyến lợi và nghĩa vụ bảo vệ môi trường, đồng thời để họ thấy được sự cần thiết của hệ thống công trình đó, vận động đóng góp đầu tư, quy định chặt chẽ trách nhiệm, nghĩa vụ của họ trong việc đóng góp kinh phí xây dựng công trình. Bên cạnh đó, cần có chính sách và biện pháp cụ thể về quản lý môi trường. Cần có bộ phận chuyên trách có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực thi công tác bảo vệ môi trường, có quy định xử phạt nghiêm minh đối với những doanh nghiệp và những hộ sản xuất vi phạm luật bảo vệ môi trường. Nhà nước và chính quyền địa phương hỗ trợ đầu tư cho các công trình quan trọng dưới hình thức hỗ trợ vốn để cải tạo, xây dựng mới theo nguyên tắc kết hợp xây dựng các công trìnhgiao thông, thuỷ lợi nhằm đảm bảo tính đồng bộ cho làng nghề.
3.5 Một số kiến nghị với Nhà nước và Bộ Thương mại.
Để có thể đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ theo phương hướng mục tiêu nêu ở phần trên, ngoài việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách biện pháp đã có, đề nghị chính phủ cho sửa đổi bổ sung một số chính sách biện pháp cho phù hợp với đặc điểm và ý nghĩa của việc phát triển ngành nghề thuộc nhóm này.
* Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các đơn vị sản xuất, xuất khẩu TCMN để thúc đẩy nâng cao tính linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh .
Khi nói đến sự năng động và linh hoạt là nói đến khả năng thích nghi với các thay đổi của môi trường để tự tồn tại và phát triển. Khả năng này sẽ được tăng cường trong một môi trường lành mạnh và năng động. Vì vậy các chính sách và giải pháp trong thời gian tới đây là cần tập trung vào việc tạo lập môi trường ấy. Qua đó buộc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng TCMN nhất là các doanh nghiệp nhà nước phải chú ý đến các vấn đề như : Giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Theo hướng đó cần có một chính sách để khuyến khích mạnh sự hình thành và phát triển các chủ thể có tính linh hoạt cao, có hình thái tổ chức cho phép ra quyết định nhanh, đảm bảo tín hiệu thị trường không bị lệch lạc.
* Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu mặt hàng TCMN theo hướng tích cực.
Cơ cấu xuất khẩu được coi là chuyển dịch theo hướng tích cực khi luôn có sự xuất hiện của chủng loại, mẫu mã hàng xuất khẩu mới.
Để thay đổi cơ cấu sản xuất nói chung và cơ cấu hàng xuất khẩu nói riêng cần có sự đầu tư. Vì vậy trong những năm qua, Nhà Nước đã ban hành rất nhiều chế độ,chính sách để khuyến khích đầu tư, bao gồm trong cả lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu. Kết hợp với sự thông thoáng của luật doanh nghiệp, những chế độ và chính sách đã phát huy tác dụng rất tích cực trong việc tạo ra các mặt hàng mới và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỷ trọng của hàng chế biến, chế tạo. Theo bộ Thương mại những ưu đãi như hiện nay dành cho sản xuất hàng xuất khẩu là tương đối đầy đủ. Vấn đề chính hiện nay là làm sao để tăng cường tính minh bạch và tính phổ cập của những ưu đãi này, đồng thời thi hành chúng một cách nhất quán trên thực tế không để những khó khăn vướng mắc về thủ tục hành chính, về mặt bằng kìm hãm tác dụng tích cực của chúng.
* Năng cao kỹ năng xuất khẩu và văn hoá thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN
Xuất khẩu sẽ không thể tăng trưởng và bền vững nếu không lưu ý trau dồi kỹ năng xuất khẩu và văn hoá xuất khẩu. Kỹ năng xuất khẩu tiên tiến bao gồm như sàn giao dịch, thương mại điện tử
….Trong khi văn hoá chứa đựng những nội dung như liên kết dọc, liên kết ngang, coi trọng người tiêu dùng và chữ tín trong kinh doanh …Hai mảng này đều là điểm yếu của doanh nghiệp nước ta. Để khắc phục tình trạng này cần có sự của cơ quan quản lý Nhà Nước, thành lập các hiệp hội để liên
kết chặt chẽ hơn các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu, để các doanh nghiệp có cơ sở trong việc tạo lập các mối quan hệ thuận lợi cho việc phát triển sản xuất kinh doanh .
* Tiếp tục hoàn thiện và phát triển môi trường thể chế để thúc đẩy xuất khẩu
Một khu vực xuất khẩu năng động, linh hoạt và hoạt động theo định hướng thị trường rất cần các thể chế tương thích với nó để phát huy hết mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp chuẩn bị tốt hành trang, năng cao năng lực cạnh tranh với các công ty nước ngoài, tạo điều kiện cho hàng TCMN Việt nam thâm nhập thị trường thế giới, đề nghị Chính Phủ và Bộ Thương Mại tạo điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp những vấn đề sau:
Cung cấp về thị trường như mở website và tiếp cận các nguồn thông tin có giá trị thương mại ở nước ngoài.Đề nghị Bộ Thương mại cho mở website riêng của thương vụ để giúp các công ty tiếp cận thị trường và quảng cáo cho hàng TCMN của Việt Nam.
Thành lập trung tâm triển lãm, trưng bày các sản phẩm ở các trung tâm kinh tế của các nước cho các doanh nghiệp tham gia, mở thêm văn phòng và chi nhánh tại các địa bàn cần thiết .
*Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ cần thiết hỗ trợ cho xuất khẩu
Hiện nay các doanh nghiệp đòi hỏi nhà nước phải cung cấp thông tin về mọi mặt liên quan đến xuất khẩu cho họ. Thực ra cái mà doanh nghiệp cần không phải là thông tin mà là kết quả của việc phân tích thông tin. Trong hoàn cảnh dịch vụ phân tích thị trường và tư vấn kinh doanh còn chưa phát triển, nhà nước có thể cố gắng làm thay đổi để đáp ứng nhu cầu bức xúc của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc làm thay đổi đó không thể kéo dài gây tâm lý ỷ lại từ phía doanh nghiệp, tư duy kinh doanh thụ động, chờ đợi thị trường. Biện pháp tốt nhất là có chính sách khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh dịch vụ nghiên cứu thị trường và phân tích thông tin, rất cần phát triển thêm các dịch vụ khác như dịch vụ phân tích tài chính, bao gồm phân tích rủi ro về tỷ giá , dịch vụ pháp lý để các doanh nghiệp tham khảo trong quá trình thực hiện hợp đồng .
* Tiếp tục đẩy mạnh và cải cách hành chính, cắt giảm chi phí cho xuất khẩu và kiện toàn công tác xúc tiến
Về vấn đề chi phí vào cho xuất khẩu đã được nhiều nghiên cứu trong nước và ngoài nước đề cập đến. Cần rà soát lại các khoản phí đang thu vào hàng xuất khẩu ở khu vực biên giới, kể cả phí có hoá đơn và chứng từ. Làm thế nào để bảo đảm quỳên lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng TCMN nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,tránh những khoản chi phí trùng lặp không cần thiết.
* Tăng cường ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh hàng TCMN
Với hệ thống chính sách khuyến khích, ưu đài hiện hành thì sản xuất kinh doanh nội địa các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc các ngành nghề truyền thống đươch ưu đãi ở mức cao hơn các mặt hàng TCMN khác không thuộc các ngành truyền thống . Nhưng trong trường hợp xuất khẩu ( nếu xuất khẩu trị giá trên 30%giá trịhàng hoá sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ) thì mức ưu đãi không có gì khác biệt giữa hàng thủ công mỹ nghệ thuộc nghành nghề truyền thống và các hàng hoá xuất khẩu khác.
Giải quyết mọi vướng mắc do chế độ thuế gây ra cho hàng TCMN
Hiện nay đối với hàng thêu, đan, móc thường gặp phải những vướng mắc do chế độ thuế gây ra. Những vướng mắc ở đây tương tự như vướng mắc giữa các nghành may-dệt sợi. Nguyên liệu để làm hàng thêu, ren, móc phần lớn là nguyên liệu sản xuất trong nước, Giá của vải, chỉ, len…..cung cấp cho các cơ sở sản xuất thủ công mũ nghệ đều đã có thuế nhập khẩu thu trên nguyên liệu sản xuất ra vải, chỉ , len đó. Do khoản thuế này không được hoàn trả nên giá thành của ta bao giờ cũng cao hơn Trung Quốc, rất khó cạnh tranh. Chính phủ và Nhà nước nên xem xét lại việc cắt giảm thuế cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, xuất khẩu hàng TCMN sao cho hợp lý hơn.
Có chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện có đối với các nghành nghề truyền thống và các nghệ nhân.
Vì hàng TCMN có những đặc điểm riêng biệt ngoài những lợi ích như những hàng hoá thông thường khác nó còn truyền bá về hình ảnh và đất nước con người Việt Nam nên Nhà Nước cần có chính sách ưu đãi riêng.
Thành lập mới hoặc mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Thực trạng hiện nay là các đơn vị sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ đều thiếu vốn,
không vay được vốn hoặc không đủ sức vay vốn với lãi suất cao để tổ chức sản xuất – kinh doanh
(mua nguyên vật liệu để sản xuất hoặc mua sản phẩm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu). Nhà nước nên nới lỏng quy tắc vay vốn cho các đơn vị kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.
Có chính sách ưu đãi cho các nghệ nhân có tay nghề cao và đóng góp nhiều cho sự phát triển văn hoá dân tộc.Mở thêm các trường đào tạo nghề và có chính sách khuyến khích với học viên.
Hỗ trợ nghiệp vụ về tín dụng và văn phòng
Hàng thủ công mỹ nghệ thường chỉ bán theo từng lô nhỏ, hợp đồng nhỏ, nhiều khách hàng
nước ngoài muốn mua những lô hàng nhỏ để bán thử nghiệm thị trường, không muốn mua theo phương thức trả tiền ngay…
Để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ , đề nghị cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu các loại hàng này theo phương thức trả chậm, phương thức gửi bán hoặc đại lý bán hàng ở nước ngoài, có sự bảo lãnh tín dngj xuất khẩu của Ngân hàng hoặc quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Đề nghị chính chủ giao cho ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các ngân hàng thương mại thực hiện ưu đãi về lãi suất và kéo dài thời gian cho vay vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ theo các phương thức trên.
Trong trường hợp cần thiết, đề nghị các ngân hàng hay quỹ hỗ trợ xuất khẩu bảo lãnh tín dụng xuất khẩu theo theo các phương thức nêu trên nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp yên tâm mở rộng thị trường xuất khẩu . Trong thời kỳ trước năm 1990, có thời gian các doanh nghiệp của ta đã thực hiện phương thức gửi bán hàng tại thị trường Nhật Bản.
Chính sách hỗ trợ các công ty xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Hiện nay một số công ty chuyên doanh mặt hàng thủ công mỹ nghệ thuộc Bộ thương mại và một số tỉnh, thành phố có thâm niên và nhiều kinh nghiệm trong các khâu tổ chức sản xuất, tìm hiểu bạn hàng và thị trường tiêu thụ cho các loại hàng này.
Nhà nước cần ủng hộ và hỗ trợ các công ty chuyên doanh trở thành những công ty mạnh trong lĩnh vực này để làm nòng cốt trong việc duy trì và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống. Cụ thể là Nhà nước hỗ trợ các công ty thực thi các nhiệm vụ sau:
Tổ chức, giúp đỡ các cơ sở sản xuất khai thác các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư, trong đó mỗi công ty đỡ đầu một vài làng nghề, hỗ trự giúp đỡ họ tổ chức sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu thị trường , nhất là thị trường nước ngoài.
Chọn một đội ngũ cán bộ giỏi nghiệp vụ, có kinh nghiệm từ các công ty này để thường xuyên lo tìm bạn hàng, thị trường xuất khẩu giúp các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước xúc tiến xuất khẩu. Đội ngũ này do Cục xúc tiến thương mại tổ chức điều hành có sự hỗ trợ tài chính từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu hoặc Quỹ xúc tiến thương mại hoặc giao cho công ty tổ chức điều hành theo sự chỉ đạo, giúp đỡ của Cục xúc tiến thương mại thuộc Bộ thương mại và có sự hỗ trợ của Nhà nước. Đội ngũ này hoạt động theo một quy định thống nhất có quy định việc thưởng tiền khi tìm kiếm được bạn hàng, thị trường có khả năng tiêu thụ khối lượng lớn hàng hoá.
Các công ty thủ công này, ngoài việc chăm lo sản xuất, kinh doanh xuất khẩu của đơn vị mình, có trách nhiệm chăm lo phát triển chung cho ngành hàng,có các dự án liên doanh, liến kết trong sản xuất kinh doanh và được Nhà nước xem xét hỗ trợ các dự án đó.
Quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ
Trước đây còn Liên hiệp xã thủ công trung ương được Nhà nước uỷ quyền thực hiện một số chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống. Từ khi tổ chức này được giải thể, các chức năng trên được chuyển sang cơ quan khác nên các ngành nghề này ít được quan tâm hơn trước, đề nghị chính phủ chính thức giao chức năng nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo phát triển các ngành nghề này cho Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và có thể uỷ quyền cho liên minh hợp tác xã Việt Nam thực hiện một số chức năng đó cho phù hợp.
Thành lập một tổ chức cho việc hỗ trợ phát triển ngành nghề này theo các chủ trương chính sách của Nhà nước. Để có thể theo dõt sát tình hình thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước và trên cơ sở đó có những sửa đổi bố sung cần thiết cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ , đề nghị chính phủ giao Tổng cục hải quan tổ chức lại việc thống kê xuất khẩu tương đối chi tiết về các loại hàng hoá thuộc nhóm hàng thủ công mỹ nghệ .
* Thu hút khách du lịch quốc tế, đặc biệt là khách Nhật Bản
Với xu hướng phát triển của ngành du lịch hiện nay, khách du lịch đến Việt Nam sẽ ngày càng đông, mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ lại là một món quà thật độc đáo cho khách du lịch nước ngoài. Để tận dụng lợi thế này, Nhà nước nên có các chính sách phát triển ngành du lịch, gắn liền với việc tăng cường tiêu thụ hàng thủ công mỹ nghệ bằng một số hoạt động sau:phát triển du lịch văn hoá, tổ chức các lễ hội văn hoá truyền thống, liên hệ và đón tiếp các đoàn khách du lịch nước ngoài, có các chính sách đầu tư cho làng nghề để phát triển du lịch …qua đó làm tăng lượng hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ra nước ngoài bằng hình thức xuất khẩu tại chỗ.
Kết luận
Đối với Việt Nam ngành thủ công mỹ nghệ luôn giữ một vai trò quan trọng, với hàng trăm nghề thủ công truyền thống, hàng ngàn chủng loại sản phẩm đa dạng phong phú, ngành không những góp phần bảo tồn và phát triển giá trị truyền thống mà còn góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động nông nhàn với thu nhập ổn định, tăng thu nhập quốc dân, phát triển du lịch, hội