Cấu Trúc, Nhịp Điệu Trong Thơ Mông Thời Kỳ Hiện Đại


các nhà thơ Mông sử dụng để thể hiện sự đoàn kết và niềm vui trong cuộc sống: “Mẹ con, bố con/ Sống tưng bừng như một tổ ong mật”, “Để người vùng cao vùng thấp/ Mới được ở ầm vang như tổ ong khoái ong mật” (Hùng Đình Quí), “Có ngày cuộc sống của ta như ong khoái” (Sùng A Trống), “Đôi ta thành vợ chồng/ Nảy nở sinh sôi như tổ ong mật” (dân ca Mông)...

Chúng tôi không có điều kiện để khảo sát đầy đủ những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng trong thơ ca Mông, sự xuất hiện với tần số cao những hình ảnh tiêu biểu của thiên nhiên con người và cuộc sống vật chất tinh thần của người Mông góp phần làm cho thơ hiện đại Mông mang một đặc trưng riêng hay nói cách khác, đó là một trong những biểu hiện của bản sắc dân tộc trong thơ Mông hiện đại. Những hình ảnh “chim khướu, chim ri”, “tiếng khèn”, “đàn môi” … là những biểu tượng đặc trưng cho những nét phong cách và sinh hoạt của người Mông, rất cần những nghiên cứu một cách cụ thể, riêng biệt. Thiết nghĩ, chắc chắn đó sẽ là những khám phá lí thú về vấn đề đặc trưng bản sắc của dân tộc Mông.

3.3. Cấu trúc, nhịp điệu trong thơ Mông thời kỳ hiện đại

3.3.1. Cấu trúc, nhịp điệu chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống dân tộc Mông

Kết cấu của bài thơ là một trong những phương tiện để biểu đạt nội dung. Kết cấu của bài thơ còn phần nào bộc lộ những đặc điểm về tâm lí, cách tư duy, biểu đạt của từng tác giả. Thơ Mông hiện đại mang những đặc trưng riêng mà theo chúng tôi có thể phân chia thành hai xu hướng kết cấu của các bài thơ: Xu hướng kết cấu truyền thống và xu hướng kết cấu hiện đại.

Kết cấu theo lối truyền thống là một trong những đặc trưng nổi bật của thơ Mông hiện đại. Đó vừa là một ưu thế đồng thời vừa là một hạn chế nhất định của thơ Mông. Sử dụng các hình thức kết cấu của thơ ca truyền thống tạo cho thơ Mông có đặc điểm riêng biệt, dễ nhận ra, giàu bản sắc. Tuy nhiên, sử dụng quá


nhiều hình thức kết cấu đó sẽ làm cho các bài thơ trở nên đơn điệu, dễ nhàm chán, không bắt kịp được với lối tư duy hiện đại, là một sự kìm hãm trong việc chuyển tải nội dung phản ánh cũng như ý đồ nghệ thuật của các tác giả.

Thơ Mông hiện đại chịu ảnh hưởng rất lớn của dân ca Mông về mặt hình thức kết cấu. Lối kết cấu đối ngẫu, lặp lại nhiều lần những từ ngữ, hình ảnh, cấu trúc câu thơ kết hợp với sự phối âm các thanh điệu bằng trắc làm cho thơ Mông hiện đại có những giai điệu rất gần với dân ca Mông:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Em gầu Mông

Nếu em nhớ dài, anh nhớ lâu

Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại từ 1945 đến nay - 11

Thì cho dù hang ra hoa, đá ra quả

Cũng chẳng ai tách rời được hai ta đâu! Nếu em nhớ đầy, anh nhớ đủ

Thì cho dù đá ra quả, hang ra hoa Cũng chẳng ai tách rời hai ta được!

(Đợi chờ - Hùng đình Quí)

Thậm chí, có những bài thơ Mông đọc lên chúng ta có cảm giác đã thấy rõ những giai điệu để có thể cất ngay lên tiếng hát:

Trên vòm trời mây quang Dưới vòm trời trăng sáng Con chim hoạ mi nhảy nhót

Con chim khướu đậu cành lan hót vang

Qua hội xuân này kẻo mình đi nhà mình, ta trở về nhà ta thôi Đôi ta không còn tựa lưng nhau thổi đàn môi

(Hội xuân - Mã A Lềnh)

Thơ Mông giàu nhạc điệu, một phần là do âm hưởng của dân ca Mông quá sâu đậm chi phối từ cảm xúc đến kết cấu, từ hình ảnh đến nhịp điệu của từng câu thơ:


Em là cô gái Mèo hoa

Anh là chàng trai Tày trắng Trời có mắt trời cho ta thấy Đất có lòng, đất cho ta duyên Trời đất se duyên bên sườn núi

(Tình ca ở Chu Lầu Thí - Giàng Xuân Hồ)

Tuy nhiên, ảnh hưởng quá nhiều từ hình thức kết cấu của dân ca làm cho thơ Mông hiện đại không tránh khỏi sự lặp lại đến đơn điệu, đôi khi cũ kĩ, sáo mòn: “Con bướm vàng mặc váy hoa vàng/ Ngày ngày làm dáng /chạy loăng quăng bên rừng/ Con bướm mặc váy mới hoa lụa/ Ngày ngày làm dáng chạy nhênh nhang” (Giàng A Tủa), “Anh trai Mông/ Nước trong, trong vắt không vẩn đục/ Anh hãy đi rồi mau trở lại/ Nước trong, trong vắt không vẩn ngầu

/Anh hãy đi rồi mau rồi trở về” (Hùng Đình Quí).

Kết cấu đối ngẫu, trùng điệp làm cho thơ Mông trở nên dàn trải, thiếu sự cô đọng cần thiết. Đây cũng chính là một trong những hạn chế của những bài thơ chịu ảnh hưởng quá nặng nề của hình thức dân ca. Tuy nhiên, nó có vẻ lại là món ăn “hợp khẩu vị” của người Mông ở khả năng hành dụng hát không cần phổ nhạc. Vì thế mà những bài thơ của Hùng Đình Quí, Giàng A Páo trước nay vẫn được nhiều người Mông ưu thích.

3.3.2. Xu hướng hiện đại trong cấu trúc, nhịp điệu của thơ ca Mông thời kỳ hiện đại

Bên cạnh xu hướng kết cấu thơ chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền thống, thơ ca hiện đại Mông còn mang những đặc điểm của cấu trúc thơ ca hiện đại. Điều này thể hiện rất rõ trong việc dồn nén câu chữ, đặc biệt là cách gieo vần, ngắt nhịp trong các câu thơ, bài thơ. “Nếu so với dân ca dân tộc thiểu số thì thơ hiện đại dân tộc thiểu số đã có một bước nhảy vọt về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện” [58;59]. Thơ Mông hiện đại cũng vậy, xu hướng thoát li


truyền thống trong hình thức thơ bộc lộ rất rõ. Trước hết, sự cô đọng thể hiện ở nhan đề các bài thơ. Nếu như giai đoạn trước năm 1975, thơ Mông thường chỉ có nội dung dàn trải, giọng điệu giãi bày, kể lể; tên các bài thường dài (chẳng hạn, các bài thơ “Mặt trời, mặt trăng và Bác Hồ” của Sùng Nhìa Tú; “Ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải” của Hùng Đình Quí; “Chim Câu kỉ Giàng gọi mùa” của Giàng A Của, “Núi mọc trong mặt gương” của Mùa A Sấu …) thì thơ Mông sau 1975 thiên về những bài thơ ngắn với cách đặt tiêu đề cũng rất cô đọng, chắt lọc. Tập “Mã A Lềnh thơ” (2002) gồm 42 bài thơ, trong đó, xuất hiện tới 22 bài thơ nhan đề chỉ có từ một đến hai chữ. Bài thơ có tiêu đề dài nhất cũng chỉ có bốn chữ. đặc biệt xuất hiện những bài thơ tứ tuyệt mà gần như chưa bao giờ xuất hiện trong thơ Mông trước đây. Thậm chí có những bài thơ nhỏ chỉ có hai câu (“Nhà văn”, “Thực tế”, “Văn”, “Thơ”, “Truyện ngắn”, “Trường ca” - gần như là những định nghĩa riêng, độc đáo trong “chùm thơ đạo nghiệp” của Mã A Lềnh).

Thể loại lục bát là một hình thức kết cấu gần như độc quyền phổ biến của thơ ca dân tộc Kinh, đã được sử dụng khá thành công trong thơ của các dân tộc thiểu số khác từ sau cách mạng tháng Tám, cũng đã xuất hiện trong thơ hiện đại của dân tộc Mông một cách khá nhuần nhuyễn:

Lương hưu đầu tháng lĩnh rồi Đưa em nguyên vẹn. Em cười cất đi

(Hưu - Mã A Lềnh)

Thậm chí, có những bài thơ mà cấu trúc thể loại lục bát đã được cách điệu, tạo nên cách ngắt nhịp mang dấu ấn nghệ thuật khá rõ:

Tuyết buông

nhoà trắng

góc trời Sương sa trên má

một người


vợi xa Cánh chim chấp chới

chiều tà Thinh không

lá rụng

vỡ oà

hoàng hôn

(Chiều xưa - Mã A Lềnh)

Cách ngắt nhịp theo kiểu chẻ nhỏ các câu thơ, “đánh rơi” từng con chữ hay lối thơ bậc thang từng xuất hiện trong thơ của Nguyễn Vĩ trong phong trào thơ mới mà theo các nhà nghiên cứu phê bình, chịu ảnh hưởng rõ rệt của thơ Maiacopxki trước đây cũng được các tác giả người Mông như Mã A Lềnh, Mã Ngân Hà sử dụng, cũng không thể nói là không được những hiệu quả nghệ thuật nhất định:

Đường con đi phía trước

bắt đầu

từ


Có giọt đau nào

trót

sa nơi

ngực

CHA


(Cha - Mã Ngân Hà)

rồi

phải không cha?

(Với cha - Mã A Lềnh)


Thậm chí, thơ văn xuôi là một biến thể đặc biệt của thơ trữ tình cũng đã được các nhà thơ Mông sử dụng với sự bộc lộ, tuôn chảy mãnh liệt của cảm xúc: “Tôi chợt vô ý nước mắt chan ra say đắm lang thang một mình đứng xem các bạn Chăm say sưa với điệu dân ca dân vũ suốt ngàn năm sương rừng gió núi và hoàn thiện qua bấy nhiêu năm ánh sáng cách mạng soi đường” (Từ Vân Hồ ‟86 - Mã A Lềnh).

Có thể nói, các nhà thơ hiện đại dân tộc Mông đang kiên tâm bền bỉ trên hành trình đổi mới cho thơ, với những mong ước rất đáng trân trọng là để thơ dân tộc Mông tạo nên một nguồn mạch mới, bắt nhịp và chan hoà vào dòng chảy chung của thơ ca hiện đại các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.

3.4. Tư duy, diễn đạt trong thơ Mông thời kỳ hiện đại

3.4.1. Tư duy trực quan hình ảnh

Tư duy trực quan hình ảnh là đặc điểm chung của người miền núi, đúng hơn là đặc điểm chung của người dân tộc thiểu số. Đó là sự tự biểu hiện của khả năng nhận thức và biểu đạt của cá nhân trước một vấn đề trừu tượng đòi hỏi phải diẽn đạt bằng ngôn ngữ với mục đích để người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận. Thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ dân tộc Mông nói riêng, rất giàu hình ảnh. Tư duy hình ảnh tạo nên sự phong phú độc đáo cho hình tượng thơ. Lựa chọn những hình ảnh có khả năng diễn tả chính xác nội dung cần biểu hiện làm cho những câu thơ, bài thơ trở nên sinh động và có tính biểu cảm cao, gây được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Chẳng hạn, để miêu tả cái nắng nóng gay gắt đến khắc nghiệt của những ngày hè, nhà thơ Nông Quốc Chấn có những câu thơ đầy hình ảnh: “Mặt trời như bốc lửa/ Nắng vỡ ống bương/Bụi mù trên nương/Ngoài ruộng nhe nanh, chim cu đánh sảng… (Thần nông). Nhà thơ La Quán Miên (dân tộc Thái) có cách nói rất hình ảnh khi kể về giặc Mỹ ném bom bắn phá quê hương: “Cái máy bay


thằng Mỹ/Ném bom xuống bom to như cái chum/Bản nhà sàn của ta ăn lửa” (Tiễn dặn người trai bản). Cách tư duy của người miền núi làm cho tất cả mọi sự vật hiện tượng đều có cuộc sống riêng có suy nghĩ và hành động như con người: “Núi già, núi có râu đầy cằm/Núi có máu, có xương núi sống” (Núi - Lương Quy Nhân). Trong thơ Mông hiện đại, cách tư duy trực quan hình ảnh cũng thể hiện rất rõ. Diễn tả không khí lao động khẩn trương cho kịp mùa vụ, Giàng A Của dùng hình ảnh “đưa hết cánh tay ra đồng ruộng”. Khuyên mọi người có ý thức bảo vệ rừng, Sùng A Trống chỉ ra tác hại của việc tàn phá rừng đầu nguồn: “Ta đem rừng triệt hại/Có ngày cuộc sống của ta/Như là con mương ruộng đã vỡ/Còn trơ lại cái rãnh khô”. Hùng Đình Quí ca ngợi cuộc sống hạnh phúc một vợ một chồng, lên án hủ tục lấy vợ lẽ, ông khuyên những người Mông không nên “tranh đục cũ người dùng”, “cướp dao mẻ người liếc”. Tư duy trực quan hình ảnh tạo cho thơ Mông có sức khái quát cao hơn, gần với nếp cảm, nếp nghĩ, với cách diễn đạt trong ngôn ngữ hàng ngày của người Mông.

3.4.2. Tư duy, diễn đạt mang đậm bản sắc dân tộc Mông

Mặc dù cách tư duy diễn đạt bằng hình ảnh không phải là cách biểu hiện mang tính đặc thù trong ngôn ngữ thơ ca của bất cứ dân tộc nào, nhưng sắc thái để khu biệt tính đặc trưng trong thơ của từng dân tộc lại rất rõ. Nó được biểu hiện bằng cách sử dụng những hình ảnh gần gũi quen thuộc với cuộc sống của từng vùng, từng dân tộc, thậm chí cả đặc điểm tâm lí và cá tính của dân tộc cũng phần nào được bộc lộ qua những hình ảnh đó. Chẳng hạn, những hình ảnh so sánh ví von với “cá” thường được sử dụng như một đặc trưng trong thơ của các dân tộc Mường, Thái do đặc trưng sinh sống ở ven các con sông và việc canh tác lúa nước. Vậy nên, trong thơ Thái hiện đại mới hay xuất hiện những hình ảnh so sánh như: “Cổ tay em tròn đuôi cá” (Sầm Nga Di), “Bàn chân xinh xắn như đuôi cá xoè” (Lương Quy Nhân). Chính từ phong tục


tập quán “ăn theo nước” nên người Thái mới có sự gắn bó máu thịt với ruộng đồng, sông suối. Các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao của người Thái nói nhiều đến hình ảnh cá như: “Quí thóc - thóc về. Quí cá - cá lên” hay “Được nắm xôi ngon chớ quên ruộng/Được khúc cá bùi chớ quên suối”. Trong tập hợp những hình ảnh được diễn đạt, biểu hiện theo tư duy của người Mông, dường như chưa một lần có những sự so sánh ví von liên quan đến cá. Tuy nhiên, lại xuất hiện với một mật độ khá lớn các hình ảnh đặc trưng của người Mông: Nếu là hoa thì đó là phong lan, hoa mận, hoa đào …, nếu là chim thì đó là hoạ mi, chim ri, chim khướu …, nếu là cây thì đó là cây ngô, cây lanh v.v… Không chỉ hình ảnh mà cách diễn đạt hình ảnh trong thơ Mông cũng rất độc đáo và giàu bản sắc. Chẳng hạn, nói về tác hại của tệ nạn nghiện rượu và thuốc phiện, các nhà thơ Mông thường sử dụng cách diễn đạt rất hình ảnh và cũng rất độc đáo: “Người tài chui vào hũ”, “Người giỏi chui vào chai”. Những cơn đói thuốc vật vã làm cho con nghiện như “cầy điên chết bệnh”, “mèo dại chết nắng”, tài sản bị tiêu tan: “dưới nhà còn đất/trên gác chỉ còn bồ hóng” (Hùng Đình Quí), để rồi nhà thơ đưa ra những lời khuyên nhủ chân tình: “Chàng trai muốn áo bông lồng áo lụa/Hay để cái tẩu hơ ngọn đèn?” (Mùa A Lao), “Nay ta đem con đường hút thuốc phiện chặt phăng đi” (Giàng Sùng Tủa). Nhiều hình ảnh thơ là sản phẩm của lối tư duy trực quan mộc mạc đến hồn nhiên, chân thật đến ngộ nghĩnh. Lời người trai Mông lên đường đánh Mỹ thể hiện một ý chí cao, một quyết tâm sắt đá: “Chỉ có con cóc mới đi không hết đường/Trở về chết dưới bàn tay vợ”. Để rồi: “Đi gặp giặc Mỹ giữa đường/ Anh trai Mông đánh như sét đánh chó/Đi gặp giặc nguỵ giữa lối/Anh trai Mông đánh như sét đánh rắn”. Núi rừng, con người Việt Bắc thay da đổi thịt, tưng bừng trong cuộc sống mới “khác nào rắn xanh lột da”, “khác nào măng mai lột bẹ”. Người Mông vui vẻ, hạnh phúc “sống tưng bừng như một tổ ong mật”, con người trở nên những nhân cách đẹp: “Anh trai Mông tốt bạc/Em gái Mông tốt vàng”…

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 10/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí