Một Số Hàm Ý Chính Sách Hỗ Trợ Khác 5.2.3.1.quản Lý Độ Mở Thương Mại


cạnh đó, chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ngoại hối, bao gồm cả yêu cầu về dự trữ ngoại hối đủ lượng cần thiết để đáp ứng trước các cú sốc bên ngoài, đặc biệt là đối phó với dòng vốn ngắn hạn như FPI.

5.2.3. Một số hàm ý chính sách hỗ trợ khác 5.2.3.1.Quản lý độ mở thương mại

Độ mở thương mại (còn gọi là độ mở nền kinh tế) phản ánh mức độ mở cửa hội nhập của một quốc gia. Nền kinh tế mở là một nền kinh tế có giao dịch với các nền kinh tế khác. Nền kinh tế này trái với một nền kinh tế đóng cửa, trong đó không có xuất khẩu, không có nhập khẩu, không có di chuyển vốn quốc tế.

Theo kết quả các mô hình nghiên cứu, độ mở nền kinh tế tác động có ý nghĩa thống kê đến các yếu tố tỷ giá thực đa phương, vốn FDI và cả vốn FPI. Trong đó, độ mở thương mại tác động cùng chiều đến tỷ giá thực ở độ trễ 3 quý và 4 quý, có nghĩa là độ mở thương mại tăng có xu hướng làm giảm giá trị đồng tiền Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả phân rã phương sai cho thấy tác động của độ mở thương mại dến REER khá nhẹ (khoảng 0,6% ở độ trễ 3 quý và khoảng 1,7% ở độ trễ 4 quý). Bên cạnh đó độ mở thương mại tác động cùng chiều khá nhẹ đến vốn FDI ở độ trễ 2 quý và 3 quý (khoảng 1,4% ở độ trễ 3 quý và khoảng 2,4% ở độ trễ 4 quý); trong khi tác động ngược chiều mạnh hơn đến vốn FPI (khoảng 3,4% ở độ trễ 2 quý và khoảng 4,3% ở độ trễ 3 quý). Điều này cho thấy, độ mở thương mại có ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn ĐTNN nhưng mức độ tác động không nhiều.

Thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam có độ mở thương mại khá cao và tăng lên tương đối nhanh, là kết quả của chính sách hội nhập quốc tế đa phương, vừa giúp khai thác thế mạnh của kinh tế trong nước, vừa tranh thủ được thị trường thế giới. Điều này cũng đồng nghĩa nền kinh tế ở trong nước sẽ bị tác động nhanh, mạnh bởi các biến động từ thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, phân tích đặc điểm của độ mở nền kinh tế cho thấy, độ mở của nền kinh tế Việt Nam còn nhiều bất cập. Cụ thể là: độ mở của nền kinh tế còn nặng về số lượng và hạn chế về chất lượng; đạt trạng thái xuất siêu là do nhập khẩu giảm tương đối; độ mở thương mại cao và tăng nhanh phần quan trọng do sự đóng góp lớn của khu vực có vốn FDI. Do vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần có chính sách cải thiện độ mở thương mại theo hướng nâng cao về chất lượng, đồng thời tiếp tục gia tăng độ mở thương mại về số lượng nhằm tạo nền tảng tốt cho ổn định tỷ giá và gia tăng thu hút vốn ĐTNN.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tiếp tục nghiên cứu và ký kết tham gia các điều ước và định chế quốc tế thuộc lĩnh vực hội nhập quốc tế về đầu tư để tạo mối quan hệ thúc đấy mở rộng dòng vốn FDI. Đồng thời, Chính phủ cần quy định rõ hơn những lĩnh vực ưu đãi khuyến khích


đầu tư cũng như cung cấp thông tin đầy đủ, minh bạch hóa các thủ tục đầu tư và đảm bảo thực thi có hiệu lực hệ thống pháp luật nhằm ổn định môi trường đầu tư tạo tâm lý an tâm cho các nhà ĐTNN. Đối với hoạt động xúc tiến đầu tư cần phân loại và lựa chọn các nhà đầu tư phù hợp với lợi thế của Việt Nam để có chính sách khuyến khích, hỗ trợ kịp thời cho các tập đoàn, công ty đa quốc gia có vốn sở hữu nước ngoài có kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.

5.2.3.2.Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

Tăng trưởng kinh tế là một yêu cầu trong chiến lược phát triển kinh tế, là mục tiêu theo đuổi của các nhà quản lý chính sách. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tăng trưởng kinh tế tác động có ý nghĩa thống kê đến mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn ĐTNN thông qua tác động đến tỷ giá và vốn FPI, dù tác động nhỏ. Tăng trưởng kinh tế tác động cùng chiều đến REER ở độ trễ 1 quý nhưng dài hạn hơn thì có tác động ngược chiều đến REER ở độ trễ 2 quý. Như vậy, trong ngắn hạn, tăng trưởng kinh tế tác động làm giảm giá trị thực của đồng tiền Việt Nam, nhưng lâu dài hơn thì lại làm tăng giá trị thực của VND. Bên cạnh đó, tăng trưởng chưa có tác động có ý nghĩa thống kê đến vốn FDI, nhưng lại có tác động ngược chiều đến FPI ở độ trễ 4 quý tuy nhiên, mức độ tác động rất nhẹ (chỉ đóng góp 0,9% vào thay đổi của FPI). Trong thời gian qua, tăng trưởng kinh tế Việt Nam các năm qua luôn duy trì ổn định ở mức cao trong các năm qua (GDP bình quân 6,5-7%/năm). Trong thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục ổn định nền kinh tế, phấn đấu duy trì mức độ tăng trưởng cao và bền vững. Đặc biệt là, Chính phủ cần kiểm soát ngăn chặn tình trạng tăng trưởng nóng của nền kinh tế, nguy cơ gây bất ổn cho nền kinh tế.

5.2.3.3.Đối phó nguy cơ khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu

Mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn đầu tư nước ngoài - Nghiên cứu trường hợp Việt Nam - 18

Thuật ngữ khủng hoảng tài chính được sử dụng để mô tả các tình huống, ở đó các định chế tài chính hoặc các tài sản tài chính mất đi phần lớn giá trị của chúng. Khủng hoảng tài chính cũng được xem là sụp đổ của thị trường chứng khoán và sự “bốc hơi” về giá của các tài sản tài chính, dẫn đến khủng hoảng tiền tệ và sự vỡ nợ quốc gia. Một nền kinh tế đóng sẽ ít chịu tác động bởi các yếu tố bên ngoài, trong khi nền kinh tế mở chịu tác động mạnh mẽ của các cuộc khủng hoảng khu vực và toàn cầu. Khi mức độ toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại ngày càng tăng thì nguy cơ lây lan các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu ngày càng trở nên nghiêm trọng. Đối vói các quốc gia có thu hút vốn ĐTNN, khủng hoảng sẽ dẫn đến sự sụt giảm vốn FDI, cũng như sự tháo chạy nhanh chóng của vốn FPI. Trong đó, sự thoái vốn ồ ạt của dòng vốn FPI sẽ ngay lập tức gây ảnh hưởng nặng nề đến thị trường chứng khoán nói riêng cũng như thị trường tài chính nói chung.


Kết quả nghiên cứu của luận án chỉ ra rằng khủng hoảng tài chính tác động có ý nghĩa thống kê đến tỷ giá và vốn ĐTNN, đặc biệt là vốn FPI. Ở độ trễ 4 quý, khủng hoảng làm tăng REER, nghĩa là sau 4 quý xảy ra khủng hoảng tài chính thì đồng tiền Việt Nam có khuynh hướng giảm giá trị. Điều này cho thấy, khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến tương quan giá trị đồng tiền giữa các quốc gia, từ đó làm thay đổi tỷ giá.

Mặt khác, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tác động cùng chiều đến cả hai dòng vốn FDI và FPI ở độ trễ 1 quý. Kết quả cho thấy, khủng hoảng tác động có ý nghĩa thống kê mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn ĐTNN. Tuy nhiên, chiều hướng tác động vẫn còn nhiều tranh cãi. Khác với kỳ vọng của nghiên cứu, khủng hoảng tài chính được tìm thấy tác động cùng chiều đến vốn ĐTNN. Điều này có thể là do đặc điểm dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam gia tăng đáng kể trùng hợp ngẫu nhiên với giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu (quý 2/2007). Mặt khác, giai đoạn nghiên cứu chỉ có một cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra nên dữ liệu chưa phản ảnh đầy đủ bản chất của những tác động của khủng hoảng tài chính đến vốn ĐTNN.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, khủng hoảng tài chính tác động đến mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn ĐTNN, dù hướng tác động còn nhiều tranh cãi. Do vậy, trong quá trình nỗ lực thu hút vốn ĐTNN, Chính phủ cần chú trọng phòng ngừa và đối phó các nguy cơ khủng hoảng tài chính để kịp thời điều chỉnh nhằm giảm tác động của khủng hoảng tài chính đối với nền kinh tế. Chính phủ có thể sử dụng các biện pháp phòng ngừa khủng hoảng như là: thiết lập hệ thống số liệu giám sát dòng vốn, đặc biệt là biến động của vốn FPI; tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn nguy cơ rủi ro từ ngân hàng; giám sát nhằm đảm bảo thu hút và sử dụng vốn ĐTNN cho mục tiêu phát triển kinh tế (đặc biệt là vốn FDI), tránh đầu tư dàn trải, không mang lại hiệu quả cho nền kinh tế; kiện toàn khung pháp lý, phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro tiền tệ, lãi suất, hàng hóa và chứng khoán nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính.

5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Hoàn thành luận án là nỗ lực rất lớn của NCS trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Sản phẩm luận án được hoàn thiện dựa trên sự hướng dẫn nhiệt tình, tận tụy của hai giảng viên hướng dẫn và ý kiến góp ý, phản biện của hội đồng bảo vệ các cấp. Tuy nhiên với thời gian và nguồn số liệu có hạn, luận án cũng có những hạn chế nhất định, chưa hoàn thành trọn vẹn. Những hạn chế này cũng là hướng nghiên cứu mà NCS quan tâm và sẽ tiếp tục thực hiện trong tương lai. Những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của luận án bao gồm:


Thứ nhất, về sử dụng các biến số trong các mô hình nghiên cứu. Bên cạnh các biến số chính là tỷ giá và vốn FDI, và FPI mà mô hình hướng đến kiểm định các mối quan hệ, luận án cũng đã chọn lọc và đưa vào mô hình các biến kiểm soát gồm các yếu tố vĩ mô như: độ mở thương mại, tăng trưởng kinh tế và biến giả khủng hoàng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn ĐTNN có thể chịu ảnh hưởng của các yếu tố như lãi suất và độ mở tài chính. Do đó, các nghiên cứu tiếp theo cần phát triển nghiên cứu bổ sung thêm các biến vào mô hình nhằm giải thích đầy đủ hơn về tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc trong mô hình.

Thứ hai, về việc phân tách mẫu nghiên cứu đối với dòng vốn FPI. Luận án đo lường mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn FPI với dữ liệu là vốn FPI tổng thể bao gồm thành phần chứng khoán vốn và chứng khoán nợ. Tuy nhiên, nếu xem xét chi tiết hơn, hai thành phần vốn này còn có khác biệt cơ bản về mặt bản chất cũng như xu hướng vận động. Do đó, việc phân chia mẫu nghiên cứu ra các thành phần chứng khoán chi tiết hơn cũng có thể đạt được những kết quả nghiên cứu phản ánh rõ hơn về xu hướng vận động của dòng vốn FPI. Các nghiên cứu tiếp theo có thể thực hiện phân tách vốn FPI ra hai thành phần: chứng khoán vốn và chứng khoán nợ để có thể kiểm định chi tiết hơn về mối quan hệ giữa tỷ giá và vốn FPI.

Thứ ba, xác định giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu thường có diễn biến âm thầm, khó nhận biết rõ ràng và tác động đối với từng quốc gia có thể khác nhau về thời gian và mức độ ảnh hưởng. Mặc dù luận án xác định giai đoạn khủng hoảng tài chính ở Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu của Aizenman và Binici (2016) nhưng vẫn có thể có sự sai biệt về thời gian thực sự diễn ra khủng hoảng tài chính ở Việt Nam. Điều này cũng hạn chế phần nào trong các kết luận của luận án. Trong tương lai, các nghiên cứu sau cần thực hiện thêm các thủ tục kiểm định với các mốc thời gian khác nhau để có thể xác định chính xác giai đoạn khủng hoảng tại Việt Nam.

Tiểu kết chương 5

Trong chương 5, luận án đã kết luận những kết quả nghiên cứu chính mà luận án đã chỉ ra trong chương 4. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án đã đề xuất một số hàm ý chính sách về tỷ giá và chính sách thu hút vốn ĐTNN đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Mặc dù luận án đã đạt được mục tiêu nghiên cứu nhưng không tránh khỏi những hạn chế khách quan do giới hạn về thời gian cũng như dữ liệu thu thập ở thời điểm hiện tại. Đây cũng là cơ sở để các nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp tục phát triển từ luận án.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

Trương An Bình (2015). Ảnh hưởng của biến động tỷ giá tới FDI tại Việt Nam. Tạp chí kinh tế và dự báo, 8 (592), 22-25.

Nguyễn Văn Bổn, Nguyễn Minh Tiến (2014). Các nhân tố quyết định dòng vốn FDI ở các nước châu Á. Khoa học. Đại học Cần Thơ 2014, số 31D tr.124-131

Hạ Thị Thiều Dao, Phạm Thị Tuyết Trinh (2010). Mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, năm 2010

Hạ Thị Thiều Dao (2012). Nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái thực: trường hợp Việt Nam”. Nhà xuất thanh toán”. Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng, 103, tháng 12-2010. bản thanh niên, trang 16-20

Hạ Thị Thiều Dao, Nguyễn Hồng Vinh (2012). Biến động luồng vốn vào và bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 12 (200) tháng 12, 2012, trang 55-63.

Phan Thị Quốc Hương (2015). Các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút FDI vào Việt Nam. Kinh tế và Dự báo 2015, số 7 tr.45-47.

Lê Thị Lanh, Huỳnh Thị Cẩm Hà, Lê Thị Hồng Minh (2015). Tác động của các chỉ số kinh tế vĩ mô đến dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 29(30)-Tháng 01-02/2015

Đỗ Văn Lâm (2014). Các nhân tố tác động tới dao động tỷ giá. Tạp chí Thông tin và Dự Báo Kinh tế -Xã hội số 103(7.2014), trang 13-22

Nguyễn Quốc Luật (2009). Đẩy mạnh thu hút FDI vào nông nghiệp. Tạp chí Kinh tế và Dự báo 2009, Số 23 tr. 18-20

Hồ Đắc Nghĩa (2016). Phân tích mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1990-2015. Kinh tế và dự báo 2016, số 30 tr.13-16

Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015). Ảnh hưởng của tỷ giá và các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản đến FDI. Tạp chí Kinh tế và Dự báo 2015, số 16 tr.51-53

Nguyễn Thị Hồng Nhung (2016). Ứng dụng mô hình ARDL đánh giá tác động của chính sách tỷ giá và các nhân tố vĩ mô đến thu hút FDI tại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và dự báo 2016, số 32, tr. 7-10

Nguyễn Văn Ngọc (2016). Từ điển Kinh tế học. Nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân năm 2016, trang 118-124.


Nguyễn Kim Phước (2016). Các yếu tố ảnh hưởng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 120, tr.56-64

Bùi Thanh (2010). Đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam: thực trạng, nguyên nhân và giải pháp. Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế-xã hội, số 55 (7-2010)

Sử Đình Thành, Nguyễn Minh Tiến (2014). Tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế địa phương ở Việt Nam. Phát triển Kinh tế 2014, số 283 tr.21-41

Nguyễn Đức Hoàng Thọ (2016). Đẩy mạnh thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trên địa bàn Hà Nội. Kinh tế và Dự báo 2016, số chuyên đề 4 tr.9-11

Lê Thanh Tùng (2014). Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và độ mở thương mại tại Việt Nam. Tạp chí phát triển và hội nhập, số 18 (28) - tháng 09-10/2014.

Đặng Vinh (2013). Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại thành phố Đà Nẵng trong tình hình mới. Khoa học & Công nghệ Đại học Đà Nẵng 2013, số 4 tr.156-161

Nguyễn Như Ý và Trần Thị Bích Dung, 2013. Giáo trình Kinh tế Vĩ mô. NXB Kinh tế, TP.HCM 2013.

Tổng cục Thống kê (2018), Tổng điều tra kinh tế năm 2017 - Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2011-2016, truy cập tại

<https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5&ItemID=19081 ngày 25/9/2019]

Quốc Hội (2014). Luật Đầu tư: Luật số 67/2014/QH13 quy định về hoạt động đầu tư được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014.

Đại hội XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011). Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011- 2020, ban hành ngày 17-03-2011.

Bộ Chính Trị (2019). Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, thông qua ngày 20-08-2019.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH

Abdullah, H., Bakar, N. A. A., & Hassan, S. (2006). Analysis of FDI Inflows To China From Selected Asean Countries: A Panel Cointegration Approach. Journal of Economic Cooperation and Development. 35(3), 1-28.

Agarwal, R. N. (1997). Foreign portfolio investment in some developing countries: A study of determinants and macroeconomic impact. Indian Economic Review, 217-229.

Ahmed, S., & Zlate, A. (2014). Capital flows to emerging market economies: A brave new world? Journal of International Money and Finance, 48, 221-248.

Aizenman, J., & Binici, M. (2016). Exchange market pressure in OECD and emerging economies: Domestic vs. external factors and capital flows in the old and new normal. Journal of International Money and Finance, 66, 65-87.

Al-Abri, A., & Baghestani, H. (2015). Foreign investment and real exchange rate volatility in emerging Asian countries. Journal of Asian Economics, 37, 34-47.

Alba, J. D., Wang, P., & Park, D. (2010). The impact of exchange rate on FDI and the interdependence of FDI over time. The Singapore Economic Review, 55(04), 733-747.

Ali, F. M., Spagnolo, F., & Spagnolo, N. (2017). Portfolio flows and the US dollar–yen exchange rate. Empirical Economics, 52(1), 179-189.

Ang, J. B. (2008). Determinants of foreign direct investment in Malaysia. Journal of policy modeling, 30(1), 185-189.

Anggitawati, D., & Ekaputra, I. A. (2020). Foreign Portfolio Investment Flows and Exchange Rate: Evidence in Indonesia. Emerging Markets Finance and Trade, 56(2), 260-274.

Aqeel, A., Nishat, M., & Bilquees, F. (2004). The determinants of foreign direct investment in Pakistan [with comments]. The Pakistan Development Review, 651-664.

Arize, A. C. (1997). Conditional exchange-rate volatility and the volume of foreign trade: Evidence from seven industrialized countries. Southern Economic Journal, 235-254. Arthur, O. S., & Sheffrin, S. (2003). Economics: Principles in action. Upper Saddle

River. New Jersey, 7458, 551.

Asiedu, E. (2002). On the determinants of foreign direct investment to developing countries: is Africa different? World development, 30(1), 107-119.

Asteriou, D., & Hall, S. G. (2007). Applied Econometrics: a modern approach, revised edition. Hampshire: Palgrave Macmillan, 46(2), 117-155.


Athukorala, P. C., & Rajapatirana, S. (2003). Capital inflows and the real exchange rate: a comparative study of Asia and Latin America. World Economy, 26(4), 613-637.

Baek, I. M. (2006). Portfolio investment flows to Asia and Latin America: Pull, push or market sentiment? Journal of Asian Economics, 17(2), 363-373.

Baek, I. M., & Okawa, T. (2001). Foreign exchange rates and Japanese foreign direct investment in Asia. Journal of Economics and Business, 53(1), 69-84.

Ball, L. (2008). Money, banking and financial markets. Worth publishers. 155-168.

Barrell, R., & Pain, N. (1996). An econometric analysis of US foreign direct investment. The review of economics and statistics, 200-207.

Bénassy-Quéré, A., Fontagné, L., & Lahrèche-Révil, A. (2001). Exchange-rate strategies in the competition for attracting foreign direct investment. Journal of the Japanese and international Economies, 15(2), 178-198.

Berdiev, A. N., Kim, Y., & Chang, C. P. (2012). The political economy of exchange rate regimes in developed and developing countries. European Journal of Political Economy, 28(1), 38-53.

Bleaney, M., & Greenaway, D. (2001). The impact of terms of trade and real exchange rate volatility on investment and growth in sub-Saharan Africa. Journal of development Economics, 65(2), 491-500.

Blonigen, B. A. (1997). Firm-specific assets and the link between exchange rates and foreign direct investment. The American Economic Review, 447-465

Boateng, A., Hua, X., Nisar, S., & Wu, J. (2015). Examining the determinants of inward FDI: Evidence from Norway. Economic Modelling, 47, 118-127.

Bolling, C., Shane, M., & Roe, T. (2007). Exchange rates and US foreign direct investment in the global processed food industry. Agricultural and Resource Economics Review, 36(2), 230-238.

Borensztein, E., De Gregorio, J., & Lee, J. W. (1998). How does foreign direct investment affect economic growth? Journal of international Economics, 45(1), 115-135.

Bouoiyour, J., & Rey, S. (2005). Exchange rate regime, real exchange rate, trade flows and foreign direct investments: the case of Morocco. African Development Review, 17(2), 302-334.

Brink, N., & Viviers, W. (2003). Obstacles in attracting increased portfolio investment into southern Africa. Development Southern Africa, 20(2), 213-236.

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 27/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí