DNNVV đã tham gia liên kết, họ có cơ hội học hỏi, rèn luyện cho các DNNVV để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh, hoàn thiện các kỹ năng, từ đó nắm bắt được các cơ hội thâm nhập vào thị trường quốc tế.
Việt Nam đang đứng trước cơ hội để có thể đẩy mạnh các mối liên kết này. Một là, với tư cách là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới và tham gia tích cực vào các hiệp định thương mại, các hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam vào các thị trường đối tác sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan, điều này không chỉ tạo điều kiện cho các DN trong nước tham gia vào thị trường quốc tế mà cũng là một điều hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hai là, kể từ khi đại dich Covid 19 bùng nổ, nhiều nhà đầu tư quốc tế cũng đã nhân cơ hội này đẩy nhanh việc thực hiện chiến lược “Trung Quốc +1” để giảm bớt sự phụ thuộc vào các cơ sở sản xuất đặt tại Trung Quốc. Trong tương lai gần, có thể sẽ có một làn sóng dịch chuyển vốn đầu tư ra khỏi Trung Quốc. Bên cạnh đó, thành tích kiểm soát dịch tốt đã khiến nhiều nhà đầu tư có thêm niềm tin và mong muốn lựa chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư. Vì vậy, có thể nói Covid 19 vừa là thách thức song cũng là cơ hội đối các quốc gia trong việc thu hút FDI trong đó có Việt Nam. Trong thời gian tới, bên cạnh những biện pháp hỗ trợ DN phục hồi và nâng cao năng lực cạnh tranh, Việt Nam cần phải đẩy nhanh và mạnh hơn nữa cải cách môi trường kinh doanh và chính sách thu hút FDI để có thể thu hút những dự án FDI thật sự có chất lượng, góp phần phát triển nền kinh tế và khu vực DN, đặc biệt là các DNNVV, tạo tiền đề cho sự hình thành các liên kết sản xuất giữa DNNVV và DN FDI.
5.2 Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về khuyến khích liên kết giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực tiễn cho thấy, không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia trên thế giới, liên kết giữa DNNVV và DN FDI là một trong những kênh quan trọng lan tỏa tri thức, công nghệ, giúp các DN trong nước được kết nối với chuỗi cung ứng và mạng lưới sản xuất toàn cầu. Một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới đã thành công trong việc xây dựng thể chế, chính sách nằm khuyến khích sự hình thành các liên kết này, có thể kể đến như Singapore, Malaysia, Brazil, Mexico...
Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước, một đặc điểm chung có thể nhận thấy là sự quyết tâm của Chính phủ các nước trong việc thúc đẩy hội nhập, tự do hóa
thương mại và đầu tư. Một số điều kiện tiên quyết dẫn tới thành công trong việc tăng cường liên kết, thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong chuỗi cung ứng ở các quốc gia này bao gồm:
Thứ nhất, cần đẩy mạnh cải cách môi trường kinh doanh, thể chế với cơ chế điều phối hiệu quả giữa các cơ quan chuyên trách và các bên liên quan. Bên cạnh đó, cần tăng cường khả năng tự chủ của cơ quan hỗ trợ phát triển bởi đây là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển của DNNVV nói chung cũng như sự tham gia của các doanh nghiệp này vào các liên kết và chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hộp 5.1: Kinh nghiệm của Brazil về cải cách thể chế và môi trường kinh doanh
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Khả Năng Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Liên Kết Với Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
- Kết Quả Kiểm Định T Về Sự Khác Biệt Giữa Dn Tham Gia Và Không Tham Gia Liên Kết Xuôi Với Dn Fdi
- Đề Xuất Giải Pháp Tăng Cường Liên Kết Với Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài Để Đẩy Mạnh Sự Tham Gia Vào Chuỗi Cung Ứng Toàn
- Các Đề Xuất Chính Sách Liên Quan Tới Các Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài
- Một Số Giải Pháp Cho Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa
- Liên kết với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để đẩy mạnh sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam - 25
Xem toàn bộ 236 trang tài liệu này.
Brazil là quốc gia tiếp nhận nhiều nhất cũng như cung cấp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất trong khu vực Mỹ La tinh kể từ chiến tranh Thế giới thứ hai. Cũng như các quốc gia khác, thúc đẩy liên kết bền vững giữa các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) và doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là tiền đề cơ bản cho tác động tích cực của vốn FDI tới sự phát triển kinh tế.
Brazil được ghi nhận với các nỗ lực cải thiện tiếp cận tính dụng cho các doanh nghiệp cũng như cho phép các tổ chức tin dụng hỗ trợ quá trình tái cơ cấu của các doanh nghiệp phá sản, nhờ đó các doanh nghiệp này có thể tiếp tục hoạt động để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho các tổ chức tín dụng này. Ngoài ra, Brazil đã thực hiện cắt giảm thời gian và chi phí thành lập doanh nghiệp. Năm 2018, Brazil đã giới thiệu hệ thống đăng ký doanh nghiệp online giúp giảm thời giang đăng ký từ 82 ngày xuống còn 20 ngày. Thời gian được cấp chứng nhận xuất xứ điện tử cũng giảm còn khoảng 24 ngày. Chính phủ Brazil cũng cho thấy nỗ lực tự do hóa thương mại khi cắt giảm quy trình nhập khẩu cũng như sửa đổi các quy dịnh nhập khẩu như bãi bỏ quy định cấp phép nhập khẩu với một số hàng hóa. Đồng thời, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng được hưởng các ưu đãi tín dụng nếu thỏa mãn điều kiện vệ tỷ lệ nội địa hóa. Brazil còn cho thấy sự tiến bộ về cơ sở hạ tầng với việc cải thiện hệ thống cung cấp điện năng, đứng thứ 40 toàn cầu về chỉ tiêu này trong bảng xếp hạng của WB năm 2018 khi doanh nghiệp chỉ mất mức phí khoảng 50% thu nhập bình quân đầu người để hòa điện lưới của Brazil.
Nguồn: WB (2018)
Thứ hai, không phải mọi DNNVV đều có khả năng liên kết và tham gia chuỗi cung ứng, do đó các chương trình phát triển nhà cung cấp nên tập trung vào một số doanh nghiệp có tiềm năng trở thành nhà cung cấp lâu dài. Cùng với đó, các chương trình này cần có tiêu chí lựa chọn rò ràng, minh bạch, đặc biệt cần đề cao các năng lực về quản lý thời gian, cam kết và tham vọng của nhà cung cấp. Hệ thống đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNVV SCORE của Malaysia là một ví dụ điển hình.
Hộp 5.2: Kinh nghiệm của Malsayisa về triển khai hệ thống Đánh giá năng lực cạnh tranh của DNNVV SCORE
SCORE là công cụ được phát triển và áp dụng tại Malaysia kể từ năm 2007 nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của các DNNVV dựa trên hiệu suất và năng lực của họ. Ban đầu, chương trình này được thực hiện thí điểm cho các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực chế tạo để đánh giá hiệu quả của các khoản hỗ trợ cho việc cải thiện hoạt động kinh doanh của họ. Sau đo, SCORE được mở rộng và áp dụng cho các DN thuộc nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau nhằm đo lường năng lực cạnh tranh của các DN. SCORE cũng được sử dụng như một chỉ báo để các cơ quan nhà nước cung cấp các hỗ trợ tiếp cận thị trường và tiếp cận tài chính.
Chương trình SCORE có một số mục tiêu như (i) thu thập dữ liệu về DNNVV; (ii) đánh giá và theo dòi năng lực và hiệu suất của các DNNVV; (iii) tạo điều kiện cho các DNNVV tham gia liên kết với các DN lớn, DN liên kết với Chính phủ (government-linked companies) và các đại siêu thị; (iv) đảm bảo quỹ hỗ trợ DNNVV được sử dụng hiệu quả và tập trung nguồn lực.
SCORE xây dựng hệ số chỉ báo nhằm đánh giá DNNVV theo thang từ 1-5 sao trong 07 nhóm tiêu chí: năng lực tài chính, hiệu quả kinh doanh, nguồn nhân lực, ứng dụng công nghệ, sở hữu giấy chứng nhận và sự hiện diện của DN trên thị trường. Những doanh nghiệp DNNVV được đánh giá từ 0-2 sao là những doanh nghiệp có quy trình sản xuất thủ công hoặc bán tự động, và thường sẽ nhận được những hỗ trợ mang tính “cầm tay chỉ việc” (hand-holding assistance). Những DNNVV được đánh giá 3 sao là những DN có quy trình sản xuất bán tự động hoặc hoàn toàn tự động, có khả năng thực hiện hệ thống quản lý chất lượng, thực hiện cải tiến sản phẩm và quy trình, đã đăng ký sở hữu trí tuệ, sẵn sàng thực thi các biện pháp nhằm đạt được chứng nhận xuất khẩu. Những DN này sẽ được tham gia các chương trình hỗ trợ phát triển năng lực. Các DN được đánh giá 4 sao là những doanh nghiệp tự động hóa hoàn toàn, có đầu tư vào các hoạt động đổi mới quy trình sản xuất và sản phẩm, thường đã xuất khẩu hoặc sở hữu chứng nhận để có thể xuất khẩu. Các DN 5 sao là những DN tự động hóa ở mức độ cao, có thương hiệu tốt, hiện đã xuất khẩu hàng hóa. Những DN 4-5 sao này sẽ được tham gia vào các chương trình hỗ trợ phát triển liên kết.
Nguồn: Malaysia SCORE http://www.score.gov.my/
Thứ ba, xây dựng cơ sở dữ liệu nhà cung cấp với những thông tin cụ thể về thông tin liên lạc, sản phẩm, chứng chỉ tiêu chuẩn chất lượng, giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa tích lũy tiếng tăm về chất lượng và độ tin cậy theo thời gian. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu này cũng giúp các DN FDI có thể dễ dàng tìm kiếm được các nhà cung cấp trong nước, từ đó tăng cường cơ hội kết nối giữa DN trong nước với các DN FDI. Tuy nhiên, cơ sở dữ liệu này là một loại hàng hóa công cộng, do đó cần
được cung cấp bởi cơ quan nhà nước. Một số quốc gia như Séc, Costa Rica đã tương đối thành công trong việc xây dựng các cơ sở dữ liệu như vậy.
Hộp 5.3: Kinh nghiệm của Cộng hòa Séc về xây dựng cơ sở dữ liệu nhà cung cấp
Cộng hòa Séc là một ví dụ điển hình cho thấy lợi ích từ việc xây dựng cơ sở dữ liệu về nhà cung cấp trong nước. Hiện nay, cơ sở dữ liệu này được cung cấp miễn phí tại trang web của CzechInvest về hơn 3600 doanh nghiệp trong lĩnh vực chế biến chế tạo và công nghệ thông tin truyền thông. Cơ sở dữ liệu này cung cấp các thông tin về doanh nghiệp bao gồm thông tin liên lạc, sản phẩm, số lượng lao động, doanh thu, chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng của họ. Cơ sở dữ liệu này được sắp xếp các doanh nghiệp theo ngành nghề, vị trí trong chuỗi cung ứng (nhà cung ứng cấp 1,2,3...). Nhờ vậy, các DN FDI có thể dễ dàng tiếp cận thông tin và tìm kiếm được nhà cung cấp phù hợp với cầu của mình.
Nguồn: WB (2017), https://suppliers.czechinvest.org/Aplikace/suppliers_ext.nsf/index.xsp
Thứ tư, cung cấp các hỗ trợ nhằm giúp các doanh nghiệp hạn chế các khó khăn cản trở khả năng tham gia liên kết và chuỗi cung ứng của doanh nghiệp nhỏ và vừa, tránh việc sự hỗ trợ bị phân tán, gây tốn kém, đồng thời không giải quyết được những khó khăn của doanh nghiệp. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, chính phủ các quốc gia cung cấp nhiều chương trình hỗ trợ các DNNVV, đặc biệt là các DN khởi nghiệp trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ. Các hỗ trợ thường được tập trung nhằm giúp các DNNVV cải thiện tiếp cận tài chính vốn và cung cấp các khóa đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Không chỉ vậy, một số quốc gia như Singapore, Malaysia còn cung cấp các hỗ trợ tư vấn giúp các DNNVV thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo, cải tiến quy trình sản xuất. Một số cơ quan chuyên trách ở các quốc gia này còn giúp cung cấp các thông tin giúp DNNVV có thể kết nối với các khách hàng trong và ngoài nước, từ đó mở rộng thị trường cho các sản phẩm đầu ra. Nhiều chính sách hỗ trợ miễn giảm thuế cũng được thực hiện để giúp DNNVV có thể dễ dàng mở rộng sản suất, nâng cao năng lực sản xuất để có thể trở thành đối tác với các DN FDI.
Hộp 5.4: Kinh nghiệm của Singapore về cung cấp hỗ trợ phát triển năng lực DNNVV
Singapore đã thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ phát triển DN. Quy mô nhỏ của quốc gia này cho phép chính phủ tập trung được nguồn lực, từ đó có thể thực hiện các chiến lược phát triển DN trong nước, đặc biệt là DNNVV, tạo tiền đề cho mối liên kết giữa hai khu vực này. Singapore đã có nhiều chương trình hỗ trợ tài chính cho các DN khởi nghiệp cũng như sự phát triển và quá trình quốc tế hóa của DNNVV.
Kể từ năm 2000, Singapore thành lập Quỹ phát triển tài năng kinh doanh, phối hợp cùng các viện đào tạo sau đại học để cùng đầu tư vào các ý tưởng kinh doanh của học viên. Các chương trình khác cũng được thực hiện nhằm cung cấp vốn cho các DNNVV mới thành lập trong các lĩnh vực như khoa học và công nghệ, công nghệ thông tin, dịch vụ kinh doanh. Để giúp đỡ cho các DN siêu nhỏ, chương trình Tín dụng vi mô được thực hiện hướng tới các DN có ít hơn 10 lao động. Một sáng kiến nữa cũng cần kể đế đó là chương trình Cải tiến công nghệ được giám sát bởi SPRING nhằm tăng cường hạ tầng công nghệ hỗ trợ cải tiến sản phẩm và quy trình sản xuất của các DNNVV.
Không chỉ vậy, nhiều chương trình hỗ trợ DN nhỏ và vừa mở rộng thị trường cũng được thực hiện thông qua các biện pháp hỗ trợ tài chính và miễn giảm thuế. Các DN nhỏ và vừa cũng được tiếp cận các khoản vay để mua tài sản nước ở nước ngoài hoặc thanh toán các chi phí ở nước ngoài. Các biện pháp miễn giảm thuế cũng được áp dụng cho các DN Singapore thâm nhập thị trường nước ngoài. Ví dụ, các DN được khấu trừ các chi phí gia nhập thị trường nước ngoài. Ngoài ra, các DN còn có thể sử dụng khoản lỗ của các khoản đầu tư ra nước ngoài của năm hiện tại để được giảm thuế cho các hoạt động trong nước trong tối đa 2 năm.
Singapore cũng chú trọng trong việc tăng cường năng lực cho các DN trong nước. Ở cấp độ ngành, các cơ quan của Singapore đã phối hợp thực hiện chương trình phát triển hiệp hội DN địa phương, kết hợp cùng các hiệp hội công nghiệp để cấp vốn cho các sáng kiến nâng cao năng lực của các DNNVV. Đồng thời, chương phát riển kỹ năng quản lý cho các CEO và quản lý cấp cao của DN cũng được triển khai. Chương trình hỗ trợ kỹ thuật cũng được thực hiện nhắm tới các DNNVV có hàm lượng công nghệ cao và có năng lực sáng tạo.
Nguồn: UNCTAD (2011)
5.3 Một số đề xuất, giải pháp tăng cường liên kết với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đẩy mạnh sự tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
Kết quả phân tích của chương 3 (mục 3.2.3) cho thấy, trở ngại với quá trình liên kết giữa DNNVV và DN FDI xuất phát từ sự hạn chế trong năng lực của DNNVV, sự thiếu hiệu quả trong các chương trình khuyến khích, hỗ trợ liên kết cũng như tâm lý e lè của các DN FDI trong lựa chọn đối tác trong nước. Kết quả nghiên cứu của chương 4 cũng chỉ ra, mặc dù thực tế hiện nay mức độ liên kết cũng như sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của DNNVV còn ở mức tương đối khiêm tốn, song
liên kết với DN FDI vẫn cho thấy là một kênh quan trọng giúp đẩy mạnh khả năng tham gia của DNNVV trong chuỗi cung ứng toàn cầu, từ đó góp phần tích cực tăng cường hiệu quả hoạt động của DN. Hơn nữa, kết quả hồi quy của các mô hình định lượng (bảng 4.7, 4.8, 4.9, 4.12, 4.13) cũng cho thấy, hoạt động liên kết và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu cũng chịu sự ảnh hưởng của những đặc điểm về quy mô, khả năng tiếp cận tài chính, năng lực đổi mới của DN cũng như môi trường chính sách thể chế, chất lượng nguồn lao động và môi trường kinh doanh. Dựa trên kết quả nghiên cứu của luận án, NCS đề xuất một số giải pháp như sau:
5.3.1 Một số đề xuất đối với Chính Phủ
5.3.1.1 Các đề xuất chính sách liên quan tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa
a. Tăng cường tính hiệu quả của các chương trình phát triển liên kết giữadoanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Như trình bày ở trên, kinh nghiệm của các quốc gia đều cho thấy, các chương trình phát triển liên kết là một trong những giải pháp quan trọng giúp hình thành liên kết chuỗi sản xuất giữa DN FDI và DNNVV nước tiếp nhận đầu tư. Đồng thời, phân tích thực trạng ở chương 3 (mục 3.2.3) cho thấy, mặc dù Chính phủ đã có những nỗ lực trong việc thực thi các biện pháp kết nối nhà đầu tư nước ngoài với các DN trong nước, song nhiều nhà đầu tư vẫn còn có tâm lý e ngại trong việc kết nối với đối tác nội địa.
Kết quả của mô hình phân tích định lượng (bảng 4.7, 4.8, 4.9), các liên kết với DN FDI đã được chứng minh là có tác động tích cực tới khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các DNNVV. Đồng thời, kết quả phân tích định lượng về các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng liên kết của DNNVV (bảng 4.12, 4.13) khẳng định tầm quan trọng của chính quyền các cấp trong việc thúc đẩy liên kết giữa DNNVV và DN FDI. Vì vậy, để tăng cường liên kết nhằm đẩy mạnh sự tham gia của các DNNVV trong các chuỗi cung ứng toàn cầu, trước hết cần chú trọng đến tính hiệu quả của các chương trình hỗ trợ DNNVV nói chung và chương trình hỗ trợ phát triển liên kết nói riêng.
Hiện nay, ở Việt Nam có một số chương trình hỗ trợ phát triển liên kết bước đầu phát huy hiệu quả, cần phải ể đến là Dự án thúc đẩy cải cách và nâng cao năng lực kết nối của DNNVV (LinkSME) do USAID tài trợ với tổng giá trị là 22,1 triệu đô la Mỹ trong thời gian từ 9/2018 tới 8/2023. Với mục tiêu đẩy mạnh các liên kết kinh doanh giữa DNNVV Việt Nam và các DN đầu chuỗi cung ứng, tạo nền tảng để
các DNNVV Việt Nam tự lực tham gia các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, qua hai năm hoạt động, dự án đã hỗ trợ các DNNVV có được 82 đơn hàng trị giá khoảng 3,2 triệu đô la Mỹ. Ngoài ra, dự án “Thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa và phát triển công nghiệp” nhằm xây dựng mạng lưới kết nối DNNVV bắt đầu được thực hiện từ 4/ 2020 và kéo dài đến 4/2023 được tài trợ bởi JICA với vốn ODA viện trợ không hoàn lại trị giá gần 2,9 triệu đô la Mỹ. Với dự án này, JICA dự kiến tiến hành đánh giá hệ thống cung cấp thông tin hỗ trợ DNNVV, đồng thời đào tạo đội ngũ tư vấn viên hỗ trợ DNNVV, tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh cho các DNNVV ngành công nghiệp hỗ trợ. Chương trình đặt mục tiêu hỗ trợ khoảng 20 DNNVV có tiềm năng để tham gia chương trình hỗ trợ trở thành nhà cung ứng cho các DN Nhật Bản
Tuy nhiên, trong các văn bản giới thiệu về các dự án này, chưa có quy định cụ thể về việc lựa chọn DNNVV tham gia chương trình hỗ trợ. Cho đến nay, mới chỉ có nghị định 39/2018/NĐ-CP đã đưa ra quy định về cách thức lựa chọn ngành và DN được nhận hỗ trợ xây dựng cụm liên kết và tham gia chuỗi cung ứng. Cụ thể, Nghị định này yêu cầu DNNVV có ít nhất một hợp đồng với DN dẫn dắt chuỗi, hoặc một hợp đồng mua chung, bán chung, hoặc cùng xây dựng thương hiệu. Mặc dù tiêu chí này phù hợp với thực tế hiện tại khi tỷ lệ DNNVV có liên kết còn tương đối khiêm tốn và việc có liên kết đã phần nào phản ánh năng lực của DN, song để các chương trình hỗ trợ liên kết được hiệu quả, điều cần thiết trước hết là phải xây dựng bộ tiêu chí rò ràng về năng lực của các DNNVV. Các chính sách phát triển liên kết cần phát triển cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa đạt tiêu chuẩn để trở thành nhà cung cấp cho các DN FDI cũng như sau đó tự tham gia trực tiếp vào thương mại quốc tế. Thành công của các chương trình phát triển liên kết theo đó phụ thuộc vào mục tiêu phát triển khu vực tư nhân rò ràng, sự hiệu quả của hợp tác công tư cũng như việc xác định rò ràng vai trò và trách nhiệm cũng như mức độ cam kết của các đối tượng tham gia vào chương trình.
Ngoài ra, thực trạng cho thấy, Việt Nam hiện nay còn thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu về DNNVV, khiến các DN FDI cũng khó có thể tiếp cận thông tin và lựa chọn đối tác. Hiện nay, ở Việt Nam mới chỉ có các cổng thông tin tồn tại riêng lẻ như Cồng thông tin Doanh nghiệp business.gov.vn (thuộc Cục Phát triển Doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và đầu tư) và cổng thông tin thị trường nước ngoài vietnamexport.com (thuộc Bộ Công thương). Trong đó, cổng thông tin doanh nghiệp mới chỉ đưa thông tin về
các tập đoàn kinh tế và các DNNN thuộc các Bộ, ngành và địa phương mà chưa có thông tin cụ thể về các DNNVV. Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid còn nhiều bất ổn khiến cho việc di chuyển giữa các quốc gia và giao dịch trực tiếp trở nên khó khăn, Chính phủ, với đại diện là Bộ Công thương cần tích cực phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư cũng như các cơ quan khác trong việc xây dựng cổng thông tin hợp nhất với việc cung cấp đầy đủ các thông tin về năng lực, sản phẩm của DN cũng như các cơ hội thị trường trong và ngoài nước. Trong cổng thông tin này, có thể tích hợp hệ thống xếp hạng nhà cung cấp/người mua từ lịch sử các giao dịch đã hoàn thành. Từ đó các DN có thể dễ dàng tìm kiếm, hiểu về chất lượng/ yêu cầu về sản phẩm của đối tác, trên cơ sở đó có thể kết nối và hợp tác lâu dài với nhau.
Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Malaysia với hệ thống đánh giá DNNVV SCORE để lựa chọn DN tham gia các chương trình hỗ trợ kết nối được đánh giá là khá thành công. Quy trình đánh giá theo đó cần phải xem xét toàn diện về các yếu tố phản ánh năng lực của DNNVV như hiệu quả hoạt động, năng lực tài chính, năng lực công nghệ, năng lực quản lý, hoạt động đổi mới, hệ thống quản lý chất lượng. Mặc dù hiện nay, Cục phát triển doanh nghiệp đã có dự án thí điểm Hệ thống đánh giá tổng thể hiệu quả hoạt động doanh nghiệp theo 10 chỉ số khác nhau, song cơ sở dữ liệu còn chưa được hoàn thiện. Vì vậy, trong thời gian tới, cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống này, đồng thời tích hợp kết quả đánh giá này vào khung pháp lý của các chương trình hỗ trợ để các DN có đủ năng lực khi nhận được hỗ trợ có thể tận dụng được các cơ hội kết nối một cách có hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại dưới các hình thức như tổ chức hội chợ, triển lãm, giúp kết nối DN với khách hàng, nhà cung cấp và các đơn vị cung cấp dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.
Đồng thời, Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh hỗ trợ DNNVV xây dựng và phát triển thương hiệu, cung cấp tư vấn, hỗ trợ pháp lý để DN có thể đăng ký thương hiệu trong và ngoài nước. Có thể thấy, chương trình Thương hiệu quốc gia hiện nay đã có tiêu chí lựa chọn các DN tương đối rò ràng, song hầu hết các DN tham gia chương trình này đều là các DN lớn hoặc là công ty con của các tập đoàn lớn như hòa Phát, Gelex, BRG. Vì vậy, trong thời gian tới, cần có những hỗ trợ, hướng dẫn cụ thể dành riêng cho các DNNVV để các họ cũng có cơ hội được liên kết với các đối tác FDI và các khách hàng, nhà cung cấp nước ngoài.
b. Hỗ trợ tiếp cận tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa