Đặc trưng kinh doanh của ngân hàng là luôn tiềm ẩn rủi ro, nên vấn đề an toàn vốn phải được đặt lên hàng đầu, chính vì thế khi cho vay ngân hàng thường đưa ra những điều kiện vay vốn khắt khe. Có hai hình thức bảo đảm tiền vay: bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm bằng uy tín của người đi vay hoặc bên thứ ba với tư cách là người bảo lãnh. Vấn đề đặt ra cho chi nhánh Kinh Đô là lựa chọn hình thức nào để vừa hạn chế rủi ro vừa tạo điều kiện cho các khách hàng, nhất là DNV&N –đối tượng luôn thiếu tài sản đủ yêu cầu -có thể tiếp cận nguồn vốn.
Xuất phát từ thực tế rằng vốn của ngân hàng được đảm bảo không phải ở tài sản thế chấp của khách hàng mà ở phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, chi nhánh có thể có sự ưu đãi trong bảo đảm tiền vay như sau:
- Đối với DN được bảo lãnh tính dụng một phần và đủ tài sản đảm bảo cho phần còn lại thì yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đảm bảo nợ theo quy định và cho vay nếu phương án khả thi.
- Đối với DN được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản không đủ bảo đảm cho phần còn lại thì yêu cầu dùng tài sản hình thành từ vốn vay tiếp tục đảm bảo cho phần còn lại.
- Đối với DNV&N không đủ điều kiện để thực hiện như trên thì chi nhánh phải đặc biệt chú trọng công tác thẩm định dự án, phương án vay vốn thông qua hội đồng tín dụng, trong đó có các chuyên gia tư vấn đúng chuyên môn để quyết định đầu tư hay không và mức cho vay.
- Đối với các DNV&N hoạt động trong các làng nghề: chi nhánh có thể mở rộng diện cho vay tín chấp với khối lượng lớn hơn, việc đảm bảo tiền vay có thể thông qua các tổ chức đoàn thể hoặc hội nghề nghiệp kết hợp với tăng cường kiểm tra giám sát chặt sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
3.2.7. Hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lý thông tin, phát triển công nghệ ngân hàng.
Mở rộng tín dụng phải dựa trên nền tảng công nghệ ngân hàng hiện đại, hệ thống thu thập và xử lý thông tin hoàn thiện, chuẩn mực, chính xác. Công nghệ kém, lề mề chậm chạp tất yếu sẽ ít khách hàng; thông tin thu thập và xử lý thiếu chính xác thì mở rộng tín dụng đồng nghĩa với mở rộng rủi ro, chỉ có hại cho ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Chung Về Hoạt Động Mở Rộng Tín Dụng Đối Với Dnv&n Tại Vpbank Chi Nhánh Kinh Đô
- Phương Hướng Hoạt Động Chung Của Vpbank Chi Nhánh Kinh
- Xây Dựng Chiến Lược Marketing Hướng Tới Các Dnv&n, Tăng Cường Mối Quan Hệ Chặt Chẽ Giữa Vpbank Chi Nhánh Kinh Đô Với Dn
- Mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng chi nhánh Kinh Đô - 14
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Để mở rộng tín dụng DNV&N, chi nhánh cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý cho vay đối với các DNV&N như áp dụng các phần mềm hỗ trợ cho việc phân tích thẩm định để giải quyết việc cho vay một cách nhanh chóng, hay xây dựng hệ thống thông tin liên kết để có được thông tin của khách hàng nhanh nhất, quy trình thủ tục đơn giản, dễ hiểu, rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng.
Với chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng có thể giảm tải được công việc cho các cán bộ tín dụng. Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng chủ yếu dựa vào công nghệ, do đó đầu tư phát triển công nghệ giúp ngân hàng phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các DNV&N, từ đó thu hút thêm nhiều khách hàng có quan hệ với ngân hàng.
Việc làm này có thể làm cho ngân hàng tăng phí ban đầu nhưng giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút khách hàng, quản trị được rủi ro do thông tin nhanh chóng, điều hành hiệu quả, hơn nữa huy động tiền gửi thanh toán sẽ tăng lên do thanh toán dễ dàng, tiện lợi, đồng thời mở rộng kênh phân phối từ đó mở rộng tín dụng đối với khách hàng, trong đó có DNV&N.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
3.3.1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước
Trong những năm qua nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi để phát triển các DNV&N, giúp đỡ DNV&N vượt
87
qua được khó khăn trong thời kì nền kinh tế Việt Nam bất ổn, trong đó bao gồm chính sách hỗ trợ lãi suất do các NHTM thực hiện năm 2009, chính sách bảo lãnh tín dụng do NHPT Việt Nam thực hiện, hay gói giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trị giá 29000 tỷ đồng năm 2012. Tuy nhiên khả năng tiếp cận và hấp thụ nguồn vốn, bao gồm cả tín dụng ngân hàng của DN, nhất là DNV&N vẫn còn nhiều khó khăn. Vì thế không chỉ đưa ra những giải pháp ngắn hạn, để mở rộng tín dụng cho DN, trong đó có DNV&N, cần phải có các biện pháp dài hạn. khai thác triệt để những chính sách tốt còn hiệu lực và phát triển các chính sách đỡ đầu cho những cơ chế tiếp cận vốn mới, có hiệu quả đích thực cho đông đảo DNV&N nước ta.
Kiến nghị chính phủ với một số giải pháp cơ bản.
Chính phủ cần hoàn thiện môi trường pháp lý cho các DNV&N, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại để hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời ban hành, bổ sung, chỉnh sửa các chính sách, quy định liên quan đến DNV&N nhằm loại bỏ mâu thuẫn, thiếu đồng bộ gây cản trở hoạt động doanh nghiệp như chính sách về đất đai, chính sách bảo hiểm, chính sách phát triển nguồn nhân lực... Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động doanh nghiệp, các giải pháp tín dụng, hải quan, thuế..tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp
Tiếp theo cần có những quy định chặt chẽ cụ thể về chế độ kế toán tài chính, kiểm toán báo cáo tài chính của DNV&N, yêu cầu DNV&N thực hiện đúng, minh bạch.
Ban hành các luật cơ bản và hướng dẫn chi tiết về đăng ký tài sản, công chứng hợp đồng, đăng ký giao dịch đảm bảo…để DNV&N dễ dàng thực hiện các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ để các ngân hàng dễ dàng thực hiên biện pháp bảo đảm nghĩa vụ trả nợ khi có rủi ro, đồng thời giảm thiểu các thủ tục hành chính rườm rà..
Cơ quan quản lý cũng cần hoàn thiện khung pháp lý đối với các hoạt động mua bán nợ, mua bán tài sản đảm bảo, giải thể, sáp nhập, mua bán các công ty, doanh nghiệp, đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp theo định hướng của Chính phủ, lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho các ngân hàng thương mại cho vay.
Cải cách mô hình tổ chức hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng trong nước, phát huy vai trò của tổ chức này, giúp các DNV&N tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn.
Chính phủ đẩy mạnh chính sách khuyến khích các ngân hàng cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, tạo điều kiện cho các khách hàng lĩnh vực này tiếp cận được nguồn vốn lãi suất thấp, với thời gian phù hợp.
Cần phải có hành lang pháp lý giúp TCTD có quyền pháp định về việc được biết “tư cách” ,“năng lực” trả nợ của DNV&N thông qua các kênh thông tin được kiểm duyệt một cách chính qui, có tính bản chất của hoạt động tín dụng. Theo đó, các thông tin này càng ngày càng phải cấu thành một cách bắt buộc và đầy đủ vào “tư cách” đã được xác thực của các DNV&N. Đó là các kênh:
i. Thông tin tín dụng khách hàng: gồm năng lực tài chính, độ tin cậy của phương án trả nợ, lý lịch tiếp cận tín dụng, năng lực Ban điều hành của DNV&N, tiềm năng thị trường đầu ra của DNV&N. Việt Nam đã có Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN đang quản lý một kho thông tin tín dụng khách hàng từ trách nhiệm báo cáo của TCTD và từ nguồn DN đệ trình để tham gia xếp hạng tín dụng, được lưu trữ qua nhiều năm. Nghị định số 10/2010/NĐ-CP về hoạt động thông tin tín dụng đã ra đời, trong đó cho phép thành lập các Công ty cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng ngoài công lập, cũng sẽ là một kênh tham khảo quan trọng để bổ sung cho quyết định phương án cho vay đối với DNV&N của TCTD;
89
ii. Kênh giao dịch bảo đảm thông qua các hình thức chứng thực của cơ quan có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm trước Pháp luật về việc chứng thực, chứng nhận tính đúng pháp lý của các tài sản đảm bảo khoản vay của các DNV&N;
iii. Kênh kiểm toán nội bộ và nhất là kiểm toán độc lập cũng là kênh mới phát triển, nhưng vô cùng cần thiết, không chỉ cho TCTD thẩm định tính đúng đắn của các báo cáo tài chính DN, mà báo cáo tài chính có dấu xác nhận đã qua kiểm toán cũng rất cần cho tất cả các cơ quan thu thập và cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng;
iv. Phải xác lập cơ chế “số hóa” đối với mọi DNV&N. Theo đó, trên cơ sở những văn bản pháp lý đã có và sẽ có, những cơ quan cung ứng thông tin tín dụng đã và sẽ hiện hữu; các Công ty kiểm toán độc lập đã và sẽ hình thành..., cần có văn bản pháp lý bắt buộc đối với các DNV&N phải bổ sung và buộc phải khai vào tờ “khai sinh” của mình các thông tin liên quan đến: mã số đăng ký cung cấp thông tin về tài chính và hoạt động với đơn vị dịch vụ thông tin tín dụng chuyên nghiệp nào; số hoặc chứng nhận đăng ký chọn đơn vị kiểm toán độc lập nào làm cơ quan kiểm toán độc lập cho mình; Văn phòng Luật Sư nào bảo vệ quyền lợi cho mình...ngoài những thủ tục đăng ký mã số thuế, mã, nhãn mác, logo hàng hóa v.v tất cả những thông tin trên phải gắn với số hiệu của giấy phép kinh doanh gốc của DNV&N không thay đổi trong suốt đời hoạt động của DNV&N (dù DNV&N đó thay tên, thay địa điểm...trừ khi công bố phá sản hay sáp nhập vào đơn vị khác). Tính đích danh và minh bạch sẽ tháo dỡ được các rào cản về thủ tục hành chính, thời gian thẩm định... của ngân hàng đối với việc tiếp cận vốn của các DNV&N.
3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước
Một là, có chính sách tín dụng ưu đãi, khuyến khích các DNV&N phát triển. Đặc biệt trong điều kiện có rất nhiều chính sách, chỉ thị của nhà nước ra
đời nhằm hỗ trợ cho các DNV&N thì NHNN cũng cần nghiên cứu đưa ra một văn bản chỉ đạo tới các NHTM về hỗ trợ các DNV&N ở Việt Nam trong quá trình vay vốn, không chỉ từng thời kỳ mà là trong dài hạn. Thực tế hiện nay các DNV&N thiếu vốn trầm trọng còn các NHTM lại không thể cho vay được, điều này đòi hỏi NHNN tiếp tục đơn giản hóa thủ tục cho vay đối với DNV&N đặc biệt là khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài … Hai là, NHNN cần tiếp tục đổi mới nội dung các cơ chế cấp tín dụng,
ban hành đồng bộ theo hướng thông thoáng, phù hợp với quan hệ dân sự, hướng dẫn về đơn giản hóa thủ tục điều kiện cho vay, ban hành quy chế các giao dịch cho thuê tài chính bằng ngoại tệ, quy chế thương phiếu và giấy tờ có giá, quy chế về các nghiệp vụ phái sinh, bổ sung cơ chế đảm bảo tiền vay…
Ba là, hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng CIC để thông tin được cập nhật thường xuyên, có thể cung cấp thông tin chính xác cho NHTM.
Bốn là, hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến NHTM, TCTD, hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm tạo môi trường pháp lý lành mạnh giúp DNV&N có điều kiện thuận lợi tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Năm là NHNN cần phối hợp với Bộ tài chính và các cơ quan hữu quan khác có các biện pháp nhằm hỗ trợ nguồn trung dài hạn cho các DNV&N như thu xếp các nguồn vốn của các TCTD thế giới như ADB, WB..phân bổ các nguồn vốn và giao chỉ tiêu đến các NHTM ưu tiên cho vay DNV&N.
3.3.3. Kiến nghị đối với ngân hàng VPbank:
Với định hướng ngân hàng bán lẻ, VPBank cần nhanh chóng phát triển các chính sách hỗ trợ DNV&N tiếp cận vốn của ngân hàng, hoàn thiện quy trình tín dụng giúp nhân viên thực hiện cho vay DNV&N dễ dàng và nhanh chóng hơn, bao gồm:
- Thành lập bộ phận lưu trữ thông tin về doanh nghiệp để làm cơ sở cho các chi nhánh thực hiện thẩm định tín dụng hiệu quả hơn và giảm thiểu
91
thời gian thu thập thông tin. Hình thành cơ quan này sẽ giúp ngân hàng có một ngân hàng thông tin về khách hàng. Để làm được điều này cần ứng dụng tin học, các cán bộ nhân viên hàng ngày phải thu thập thông tin từ chi nhánh ngân hàng, từ báo chí và các cơ quan rồi tập hợp, phân loại và xử lý, có những đánh giá sơ bộ về khách hàng, xác định mức độ rủi ro và hạn mức cho vay hợp lý. Đồng thời mở các lớp đào tạo nâng cao kiến thức nghiệp vụ về các lĩnh vực công nghệ thông tin, thương mại điện tử, ngân hàng điện tử cho nhân viên.
- Cần đưa ra những quy định, chỉ đạo thống nhất từ hội sở chính cho đến các chi nhánh để giúp đỡ doanh nghiệp từ khâu làm dự án, giám sát thực hiện, thậm chí hướng dẫn, đào tạo cho doanh nghiệp vì với thực tế là có khá nhiều DNV&N do những hạn chế nhất định đã không thể hoàn chỉnh bộ hồ sơ vay vốn theo đúng quy định. Đồng thời ngân hàng cần đơn giản hóa thủ tục cho vay và tạo cơ hội cho các DN có triển vọng phát triển tiếp cận được vốn. Ví dụ như những khoản cho vay nhỏ thì ngân hàng không cần khách hàng photo công chứng tất cả các giấy tờ mà chỉ cần xuất trình bản gốc để kiểm tra…Nên giảm bớt một số giấy tờ có nội dung trùng lặp trong hồ sơ vay vốn để giảm thời gian thẩm đinh, giảm chi phí giấy tờ, chi phí quản lý và lưu trữ thông tin.
Ngoài ra ngân hàng cũng có thể hình thành một hệ thống báo cáo tài chính đồng bộ với những nội dung chuẩn để từng chi nhánh cung cấp cho khách hàng DNV&N kê khai, tạo ra chuẩn mực chung thống nhất, rút ngắn thời gian thẩm định và cho vay của cán bộ tín dụng mà vẫn đảm bảo được chất lượng- an toàn.
- Ngân hàng cần mở rộng liên kết với các hiệp hội doanh nghiệp hoặc tổ chức nghề nghiệp như Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, hiệp hội DNV&N Hà Nội…giúp DNV&N gia tăng các cơ hội tiếp cận nguồn tài
chính, còn ngân hàng gia tăng cơ hội mở rộng tín dụng. Ngân hàng có thể liên kết với các hiệp hội và trở thành nhà bảo trợ tín dụng cho các DNV&N thuộc các tổ chức này.
- VPBank cần tăng cường phát triển chiến lược marketing, nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới áp dụng trong toàn hệ thống và chỉ đạo các chi nhánh triển khai các sản phẩm đó một cách có hiệu quả trên diện rộng tới được với các DNV&N, đồng thời tăng cường kiểm tra giám sát các chi nhánh thực hiện nghiêm túc.
3.3.4. Kiến nghị đối với hiệp hội DNV&N
- Hiệp hội DNV&N cần thực hiện phân tích, đánh giá và phân loại doanh nghiệp trong hiệp hội để ngân hàng có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với từng nhóm khách hàng. Đồng thời hiệp hội cần đẩy mạnh triển khai các thỏa thuận hợp tác giữa ngân hàng và hiệp hội để nâng cao hiệu quả hợp tác giữa hiệp hội và các NHTM.
- Hơn lúc nào hết, vai trò của các Hội nghề nghiệp không chỉ là diễn đàn tạo ra đồng thuận về thị trường, giá cả đầu vào, đầu ra, phản biện chính sách, tư vấn, tạo các Hội nghị, Hội thảo và “hô hào” chung chung như đã từng làm lâu nay...mà còn cần bổ sung vươn tới các vai trò làm đầu mối “đỡ đầu” để tổ chức hình thành các Định chế Quĩ đầu tư ,Công ty tài chính trên cơ sở cổ phần đóng góp của các DNV&N thành viên, tạo ra các Pháp nhân đủ tư cách đăng ký và phát hành chứng chỉ Quĩ hay trái phiếu Công ty để hút vốn đầu tư khi có phương án khả thi trên TTCK, hoặc gọi vốn đầu tư của các NHTM vào chứng khoán của QĐT/CtyTC, tạo vốn trực tiếp cho cụm DNV&N là cổ đông của Quĩ hay của CtyTC theo qui chế. Nghĩa là QĐT/CtyTC của từng nhóm các DNV&N có quan hệ vốn và thị trường gần gũi nhau, hiểu biết rõ lẫn nhau, có các thông tin minh bạch về cơ quan kiểm toán, cơ quan thuế, cơ sở dịch vụ thông tin tín dụng cấp tin rõ ràng v.v sẽ
93