Quyền Tố Giác Về Tội Phạm Xâm Phạm Hoạt Động Tư Pháp


rút gọn so với khái niệm của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định tại Điều 292: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của tổ chức, công dân.”, tuy nhiên khai niệm này lại bao quát và đầy đủ hơn, góp phần xử lý những hành vi phạm tội tương tự xảy ra trong các cơ quan khác ngoài cơ quan điều tra chuyên trách, có sự mở rộng thêm phạm vi các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hoạt động tư pháp được pháp luật hình sự bảo vệ, bảo đảm đường lối xử lý loại tội phạm này được chính xác và toàn diện.

Theo đó, về khách thể của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tố tụng và thi hành án, nhằm bảo đảm cho các cơ quan này thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của minh theo quy định của pháp luật. Các tội phạm này không chỉ xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, uy tín, chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp mà còn xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, các tổ chức, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Về mặt khách quan của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp được thể hiện ở các hành vi xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng và thi hành án. Phần lớn các tội phạm này được thực hiện dưới dạng hành động (dùng nhục hình; bức cung; mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác cung cấp tài liệu sai sự thật; khai báo gian dối; trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử; ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật; làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc…). Một số tội phạm được thực hiện dưới dạng không hành động (không chấp hành án; không thi hành án; thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn; không tố giác tội phạm; không ra quyết định hoặc không chấp hành quyết định trả tự do cho người được trả tự do…).

Phần lớn các tội phạm có cấu thành hình thức (18/24 tội quy định tại các Điều 368, 369, 370, 373, 374, 375, 378, 380, 382, 383, 384, 385, 386, 387, 388,


339, 390, 391). Đối với các trường hợp này, tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình. Đối với một số tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có cấu thành vật chất (4/24 tội quy định tại các Điều 371,372, 376, 379, 381), tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm xảy ra hậu quả nghiêm trọng. Riêng Điều 377 BLHS năm 2015 được xây dựng theo cấu thành tội phạm hỗn hợp, nghĩa là các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm hình thức, vừa có yếu tố của cấu thành tội phạm vật chất. Lúc này, tùy từng trường hợp mà tội phạm được xác định là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội (điểm a, b, c khoản 1 Điều 377 BLHS) hoặc từ thời điểm xảy ra hậu quả (điểm đ khoản 1 Điều 377 BLHS).

Chủ thể của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp có chủ thể đặc biệt, là những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tiến hành tố tụng, như:

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, Điều tra viên, Cán bộ điều tra;

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND các cấp, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên;

Ngoài ra chủ thể của tội phạm này có thể là:

Luật hiến pháp và luật hành chính Bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp - Từ thực tiễn của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao - 3

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan thi hành các cấp, Chấp hành viên;

- Những người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ở các cơ quan của Bộ đội Biên phòng, Hải quan; Kiểm lâm; lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư; các cơ quan của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

- Những người tham gia tố tụng (như bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, bào chữa viên nhân dân…).


Trong một số trường hợp (như tội che giấu tội phạm – Điều 133; tội không tố giác tội phạm – Điều 314…), chủ thể của tội phạm có thể là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.

Về mặt chủ quan của tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, hầu hết được thực hiện bởi lỗi cố ý, trừ tội thiếu trách nhiệm để người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn (Điều 376). Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn thực hiện và mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Động cơ, mục đích phạm tội rất đa dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. [17, tr.850-858]

Với chủ trương xây dựng nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra; Viện kiểm sát nhân dân ngày càng có vai trò quan trọng, quyết định trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội bằng nhiều biện pháp như: Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự và trực tiếp điều tra một số loại tội phạm, trong đó, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một trong những bảo đảm để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát, chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm, góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Có thể nói, hoạt động điều tra là một quyền năng quan trọng và được ví như “quyền công tố nối dài” của Viện kiểm sát; không thể bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nếu không có hoạt động điều tra trực tiếp. Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, hội nhập quốc tế và đấu tranh phòng, chống các tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp nói riêng thì Cơ quan điều tra VKSND tối cao ngày càng phải được củng cố, tăng cường để bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát và đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.


Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong ba hệ thống của Cơ quan điều tra nói chung nhưng có đối tượng điều tra (thẩm quyền và phạm vi thẩm quyền) riêng biệt so với các Cơ quan điều tra khác và trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Dựa trên các quy định của pháp luật hiện hành có thể khái quát mang tính quy nạp về Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân như sau:

Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân là một trong hệ thống Cơ quan điều tra của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, được tiến hành các hoạt động điều tra theo qui định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ chứng minh sự kiện phạm tội đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.

1.1.2. Quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

- Tố giác về tội phạm: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, tố giác về tội phạm là một trong những căn cứ để xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án.

Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau:

“1. Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.

2. Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng.

3. Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.


4. Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.

5. Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.”

Tố giác tội phạm là việc công dân tố cáo với các cơ quan có thẩm quyền về những hành vi mà theo họ là có dấu hiệu vi phạm, tội phạm xâm phạm tới quyền của người tố giác hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà họ phát hiện được. Công dân có quyền và nghĩa vụ tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình sự mà họ biết với các cơ quan, tổ chức. Luật cho phép công dân có thể tố giác về tội phạm với bất cứ cơ quan, tổ chức nào mà họ thấy thuận tiện không nhất thiết phải là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong tất cả các trường hợp đó, sự tố cáo của công dân về tội phạm đều được coi là tố giác. Tố giác tội phạm có thể bằng miệng có thể trực tiếp hoặc qua thư, điện thoại hoặc bằng văn bản…Trường hợp người bị hại trình báo về sự kiện phạm tội liên quan đến họ cũng được coi là tố giác tội phạm. Có thể hiểu việc tố giác của công dân qua điện thoại như là hình thức tố giác bằng miệng và trường hợp này cán bộ tiếp nhận tố giác phải kịp thời vào sổ tiếp nhận đầy đủ thông tin người tố giác và nội dung họ tố giác. Đồng thời, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền phải kiểm tra và có trách nhiệm liên hệ trực tiếp với người tố giác tội phạm để làm rò căn cứ khởi tố vụ án.

Trách nhiệm tiếp nhận tố giác về tội phạm là của tất cả các cơ quan, tổ chức không bắt buộc phải là các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án…).

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự, công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức khác. Không chỉ các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Cơ quan điều tra, mà Điều luật còn quy định, các cơ quan khác, các tổ chức, bất kể là cơ quan, tổ chức nào khi công dân tố giác tội phạm đều có trách nhiệm tiếp nhận.


Việc quy định như vậy nhằm tạo điều kiện bảo đảm tối đa quyền được tố giác về tội phạm cho công dân; đồng thời tạo cơ chế thông tin về tội phạm được nhanh chóng, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia rộng rãi và thuận tiện vào cuộc đấu tranh với tội phạm, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc đấu tranh với tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cũng theo quy định tại Điều 144, nếu công dân tố giác tội phạm bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản tiếp nhận. Biên bản tiếp nhận tố giác tội phạm của công dân được lập theo yêu cầu chung được quy định tại Điều 133 của Bộ luật tố tụng hình sự. Người tố giác tội phạm được giải thích về trách nhiệm của mình đối với những thông tin đã tố giác; Biên bản phải ghi rò nội dung tố giác và phản ánh rò nguồn gốc thông tin về tội phạm mà người tố giác biết được. Biên bản phải được người tố giác ký xác nhận. Cơ quan, tổ chức nhận được tố giác tội phạm của công dân có trách nhiệm phải thông báo cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát bằng văn bản để xem xét việc khởi tô hay không khởi tố vụ án hình sự. Đối với những vụ án mà luật quy định chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, các cơ quan tiếp nhận thông tin ban đầu đó cũng phải làm các thủ tục như đối với các trường hợp khác khi công dân tố giác tội phạm. Cơ quan, tổ chức khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm cũng phải báo tin ngay cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

1.2. Bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền tố giác về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp

Trong tố tụng hình sự, bảo đảm quyền tố cáo, khiếu nại là nguyên tắc cơ bản. Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.


Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.

Nguyên tắc này là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của tố tụng hình sự nước ta, là phương tiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và cũng là một trong những hình thức phát hiện và khắc phục những sai lầm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.

Tại Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và Điều 30 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Điều đó thể hiện Nhà nước ta rất coi trọng quyền tố cáo và việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, thông qua hiện quyền tố cáo sẽ giúp cho Nhà nước phát hiện, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và Nhà nước. Đồng thời “quyền tố cáo” là một trong những quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trong giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức.

Bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hình sự là bảo đảm quyền công dân trong hoạt động tư pháp, là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm tôn trọng và thực hiện các quyền công dân của các cá nhân trong việc tố giác về tội phạm.

Trong tố tụng hình sự, bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là nguyên tắc cơ bản. Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.


Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.

Nguyên tắc này là một trong những biểu hiện bản chất dân chủ của tố tụng hình sự nước ta, là phương tiện bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và cũng là một trong những hình thức phát hiện và khắc phục những sai lầm trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự.

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người tố giác về tội phạm khi đã thực hiện quyền tố giác về tội phạm của mình tới các Cơ quan có thẩm quyền thì sẽ được bảo đảm các quyền lợi cụ thể: Được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và được đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa. Việc bảo vệ người tố giác và người thân thích của họ đã được Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thành một Chương XXIV. Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác. Trong quá trình giải quyết tố giác về tội phạm thì người tố giác được các Cơ quan có thẩm quyền thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và được quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Căn cứ pháp lý của việc bảo đảm quyền tố cáo được quy định tại điều 32 trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau:“Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.Cơ quan, người có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo, cơ quan, tổ chức

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí