Hoạt Động Của Hđdt, Các Ủy Ban Của Quốc Hội Qua Các Giai Đoạn Và Thực Trạng Pháp Luật Hiện Hành Về Hoạt Động Của Hđdt, Các Ủy Ban


Chương 3

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG

CỦA HỘI ĐỒNG DÂN TỘC, CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI


3.1. HOẠT ĐỘNG CỦA HĐDT, CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI QUA CÁC GIAI ĐOẠN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA HĐDT, CÁC ỦY BAN

Sự hình thành, phát triển của HĐDT, các Ủy ban cho thấy, các cơ quan này đã có một quá trình phát triển liên tục, lâu dài gắn liền với quá trình phát triển của QH nước ta. Để có thêm thông tin cho phép hình dung một cách tổng thể, toàn diện hơn khi nghiên cứu về thực trạng hoạt động của HĐDT, Ủy ban của QH nước ta, NCS đã tập trung phân tích, trình bày những nét cơ bản, những bước phát triển chính trong hoạt động của HĐDT, Ủy ban của QH qua các bản Hiến pháp của Nhà nước ta, bắt đầu từ bản Hiến pháp năm 1946 với dáng dấp ban đầu là các tiểu ban trong nhiệm kỳ QH khóa I, đã đặt nền móng cho tổ chức và hoạt động của HĐDT, Ủy ban của QH các khóa sau này, cũng như khuôn khổ pháp lý về hoạt động của HĐDT, Ủy ban của QH hiện nay. Tại Phụ lục 1, các nội dung này được trình bày cụ thể theo hai nhóm vấn đề: (i) Hoạt động của HĐDT, Ủy ban qua các giai đoạn; và

(ii) Thực trạng pháp luật về hoạt động của HĐDT, Ủy ban của QH hiện nay.

3.2. THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA HĐDT, CÁC ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI HIỆN NAY

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992, nay là Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật có liên quan, hoạt động của HĐDT, Ủy ban trong thời gian qua đã có những đóng góp rất lớn vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực hoạt động của QH. Phải nói rằng giai đoạn từ năm 1992 đến nay, và nhất là trong những nhiệm kỳ QH gần đây cũng là khoảng thời gian mà tổ chức và hoạt động của QH có nhiều khởi sắc, QH thực hiện ngày càng đầy đủ, hiệu quả hơn vị trí vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Những thành tựu mà QH nói riêng và hệ thống chính trị nói chung đã đạt được trong giai đoạn này là rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử, sinh hoạt của QH ngày càng dân chủ [90]. Có thể khẳng định rằng, trong quá trình phát triển của QH Việt Nam, HĐDT, các Ủy ban có đóng góp to lớn và hiệu quả.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả cơ bản đã đạt được, hoạt động của HĐDT, các Ủy ban cũng bộc lộ không ít những tồn tại, hạn chế. Về hoạt động của


Hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - 13

các cơ quan của QH trong thời gian qua, như GS.TS Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: các cơ quan của QH (và ĐBQH) chưa thực sự trở thành những trụ cột chính trong tổ chức và hoạt động của QH [85, tr.126]. Mặc dù theo thời gian, tình hình này đã có những tiến bộ lớn trong những năm gần đây, song những vấn đề đặt ra trong hoạt động của Hội đồng, Ủy ban vẫn cần tiếp tục được nhận diện, nghiên cứu đánh giá, để từ đó có cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện hơn nữa hoạt động của các cơ quan này thời gian tới.

3.2.1. Thực tiễn hoạt động của HĐDT, các Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp

3.2.1.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, HĐDT, các Ủy ban đã hoàn thành một khối lượng công việc rất lớn, tiến hành thẩm tra, chỉnh lý một số lượng lớn các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình QH, UBTVQH thảo luận, cho ý kiến, xem xét thông qua trong các nhiệm kỳ qua.

Kết quả tổng kết của QH qua các nhiệm kỳ gần đây cho thấy, trong nhiệm kỳ QH khóa XI, QH đã thông qua 84 luật, bộ luật, 15 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật; UBTVQH đã thông qua 34 pháp lệnh [65, tr.12]. Nhiệm kỳ QH khóa XII (2007- 2011), trong 4 năm, QH đã thông qua 67 luật, 12 nghị quyết; UBTVQH đã thông qua 13 pháp lệnh, 7 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật, trong đó phần lớn văn bản được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện [66, tr.247]. Từ đầu nhiệm kỳ QH khóa XIII đến tháng 12/2014, thống kê sơ bộ cho thấy QH đã thông qua Hiến pháp sửa đổi, bổ sung (Hiến pháp năm 2013), 74 luật; UBTVQH đã xem xét thông qua 10 pháp lệnh; trong đó, có những năm khối lượng văn bản thông qua, cho ý kiến rất lớn, như trong năm 2013, theo báo cáo của UBTVQH, QH đã thông qua Hiến pháp sửa đổi, 17 dự án luật, cho ý kiến 12 dự án khác; UBTVQH thông qua 2 pháp lệnh [92, tr.2]. Trong năm 2015, để tiếp tục triển khai thi hành Hiến pháp 2013, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã xem xét, thông qua 11 luật, 09 nghị quyết và cho ý kiến về 15 dự án luật khác; tại kỳ họp thứ 10, với quyết tâm hoàn thành cơ bản chương trình xây dựng pháp luật của nhiệm kỳ khóa XIII, Quốc hội đã thông qua 16 luật, 16 nghị quyết và cho ý kiến về 10 dự án luật khác. Với quy trình thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản qua nhiều bước, nhiều khâu theo quy định của pháp luật, phạm vi khối lượng công việc thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo văn bản của Hội đồng, Ủy ban để phục vụ việc trình UBTVQH, QH thảo luận, xem xét thông qua như trên là rất lớn, nhưng Hội đồng, Ủy ban vẫn vượt qua được sức ép lớn về nhiệm vụ lập pháp. Đánh giá xuyên suốt quá trình hoạt động của QH trong các báo cáo tổng kết nhiệm kỳ từ QH khóa IX (1992-1997) cho đến


nhiệm kỳ QH khóa XIII đều ghi nhận một thực tế kết quả hoạt động của QH ngày càng được nâng cao và gắn liền với hoạt động của ĐBQH, các cơ quan của QH, trong đó có hoạt động của HĐDT, các Uỷ ban.

Thứ hai, các nội dung thẩm tra, nhất là các vấn đề cần tập trung thẩm tra theo quy định của pháp luật ngày càng có chất lượng hơn. Chất lượng thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo ngày càng được nâng lên. HĐDT, Uỷ ban đã cải tiến phương thức hoạt động, sâu sát cơ sở, nghiêm túc nghiên cứu…để xây dựng các báo cáo thẩm tra, các bản thuyết trình, có chất lượng, bám sát các quan điểm của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tính khoa học, thực tiễn, khách quan để làm cơ sở cho QH, UBTVQH xem xét và có quyết định đúng đắn về các dự án luật, pháp lệnh, báo cáo [63]. Kết quả tổng kết hoạt động của các cơ quan của QH cho thấy, các dự án do HĐDT, các Ủy ban chủ trì thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện đều có sự thay đổi lớn về chất lượng từ kết cấu, bố cục đến nội dung các điều khoản. Chẳng hạn đối với các dự án do UBTP chủ trì thẩm tra [102, tr. 715], như dự thảo Luật tố tụng hành chính đã tăng thêm 4 chương 101 điều; dự thảo Luật trọng tài thương mại trình QH thông qua đã tăng thêm 2 chương 8 điều so với dự thảo Luật do Chính phủ trình QH cho ý kiến, v.v...

Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt động thẩm tra của HĐDT, các Ủy ban qua mấy nhiệm kỳ gần đây cũng ghi nhận điểm nhấn quan trọng trong việc thực hiện hoạt động thẩm tra của UBKH-CN-MT nhiệm kỳ QH khóa XI. Đây là Ủy ban đi đầu trong việc phản ánh đầy đủ ý kiến các thành viên Ủy ban trong hoạt động thẩm tra. Trong số 06 dự án (trong đó có 5 dự án luật, 1 dự án pháp lệnh) do Ủy ban chủ trì thẩm tra trong toàn bộ nhiệm kỳ, kèm theo báo cáo thẩm tra, Ủy ban đã ban hành Phụ lục ý kiến của các thành viên Ủy ban (kèm theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban); với việc phản ánh chi tiết, cụ thể các khía cạnh của dự án được thẩm tra cũng như có ý kiến đóng góp cụ thể về các điều khoản của 5/6 dự án, đạt tỷ lệ 83,33%; chỉ duy nhất 01 dự án pháp lệnh là không có nội dung này (nội dung cụ thể được trình bày tại Phụ lục 2). Đây là kết quả có ý nghĩa lớn trong hoạt động thẩm tra của Ủy ban, mặt khác, cũng thể hiện việc đẩy mạnh và đề cao tính thường xuyên trong hoạt động của Ủy ban. Mặc dù kinh nghiệm thực tế này mang tính khá cá biệt, nhìn chung không được thực hiện với chiều hướng tương tự trong hoạt động của các Ủy ban khác, nhưng đây là kinh nghiệm thực tiễn, minh chứng cho thấy việc phát huy đầy đủ vai trò của tập thể thành viên Ủy ban trong các hoạt động chuyên môn thông qua nhưng hình thức nhất định là có thể thực hiện được.


Thứ ba, trong thời gian qua, đã có Ủy ban chủ động đề xuất và chủ trì soạn thảo dự án luật, trong đó có những dự án đã trình QH thông qua (UBKH-CN-MT soạn thảo Luật giao dịch điện tử; Ủy ban về các vấn đề xã hội soạn thảo dự án Luật bình đẳng giới). Về triển vọng, theo đánh giá của Quốc hội [65, tr.13] thì điều này mở ra khả năng HĐDT, các Ủy ban có thể đề xuất, thực hiện việc soạn thảo và trình dự án luật nhiều hơn trong thời gian tới.

3.2.1.2. Những tồn tại, hạn chế

Thứ nhất, về nội dung, kết quả hoạt động thẩm tra không phản ánh được thật đầy đủ, toàn diện các vấn đề liên quan đến nội dung dự án.

Yêu cầu về nội dung thẩm tra có phạm vi rất rộng (Điều 43 Luật BHVBQPPL 2008); Luật cũng quy định báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ quan điểm của thành viên cơ quan chủ trì thẩm tra, đồng thời phản ánh ý kiến của các cơ quan tham gia thẩm ra (Điều 45 Luật BHVBQPPL 2008). Song trên thực tế, ở mức độ khá phổ biến, trong nhiều dự án, ĐBQH không có đầy đủ thông tin từ phía cơ quan thẩm tra đối với từng điều khoản của dự thảo văn bản trình QH, UBTVQH ở cả khía cạnh nội dung và kỹ thuật lập pháp. Khảo cứu sơ bộ ở phạm vi rộng hơn về mức độ phản ánh đầy đủ ý kiến các thành viên của HĐDT, các Ủy ban ngoài báo cáo thẩm tra, cho thấy từ nhiệm kỳ khóa X cho đến nay (ngoại trừ một số trường hợp đơn lẻ như UBKH-CN-MT đã thực hiện trong nhiệm kỳ QH khóa XI là ban hành các phụ lục kèm theo ghi nhận toàn bộ các ý kiến cụ thể của các thành viên Ủy ban), thì các cơ quan của QH hiếm khi thực hiện theo cách thức này. Thay vì có Phụ lục kèm theo báo cáo thẩm tra như UBKH-CN-MT, không ít cơ quan chủ trì thẩm tra lựa chọn cách thức nêu một cách khái quát trong báo cáo thẩm tra là: ngoài những vấn đề đã được trình bày trong báo cáo thẩm tra, thành viên của Ủy ban còn thảo luận, góp ý về nhiều điều khoản cụ thể của dự thảo văn bản cả về các nội dung và kỹ thuật lập pháp, v.v...Có thể quan sát cách thức này trong nhiều báo cáo thẩm tra thời gian gần đây, chẳng hạn như trong Báo cáo ngày 17/10/2014 của UBPL thẩm tra dự án Luật tổ chức Chính phủ sửa đổi [99]; Báo cáo ngày 21/5/2014 của UBKT thẩm tra dự án Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh [101]; Báo cáo ngày 11/3/2015 của UBTP thẩm tra dự án Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi) [103]; v.v...Một hệ quả thực tế khác kéo theo là thành viên UBTVQH, ĐBQH đã không có cơ hội tiếp cận những ý kiến bàn thảo về chuyên môn của thành viên Hội đồng, Ủy ban trong quá trình thảo luận, xem xét các dự án này.


Điều này có thể được lý giải bởi thực tế thời gian Hội đồng, Ủy ban dành cho hoạt động thẩm tra, chỉnh lý dự án, dự thảo văn bản là khá ít ỏi, ước tính chủ yếu dao động trong khoảng trung bình từ 01 ngày (phổ biến) đến 2 ngày (cá biệt) đối với một dự án (nội dung cụ thể được trình bày tại Phụ lục 3). Qua khảo cứu cũng cho thấy các báo cáo thẩm tra của Hội đồng, Ủy ban phần lớn chỉ có điều kiện tập trung vào “những vấn đề lớn”, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau...được cơ quan trình dự án trình xin ý kiến. Trong khi thực tế còn những nội dung khác, cũng rất quan trọng, hoặc nhiều vấn đề về chính sách, kỹ thuật lập pháp khác trong dự thảo văn bản...trong nhiều trường hợp lại chưa được cơ quan thẩm tra xem xét kỹ và có ý kiến đánh giá cụ thể. Về mặt hình thức, điều này thể hiện ở chỗ các báo cáo thẩm tra thường chỉ tập trung vào một số điều khoản, nội dung được cho là quan trọng của dự thảo văn bản, số lượng các điều khoản của dự thảo văn bản mà có ý kiến của cơ quan thẩm tra thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với toàn bộ dự thảo. Như thế, rõ ràng là trong trường hợp HĐDT, các Ủy ban chưa thẩm tra kỹ lưỡng, có ý kiến phân tích, đánh giá toàn diện, đầy đủ về các nội dung trong dự thảo văn bản thì tất yếu, gánh nặng trách nhiệm sẽ dồn thêm lên vai từng cá nhân ĐBQH. Ở khía cạnh khác, việc các thành viên Hội đồng, Ủy ban đã có ý kiến cụ thể về nội dung, kỹ thuật lập pháp song lại chưa được phản ánh, chuyển tải đến ĐBQH từ kết quả hoạt động thẩm tra cũng lại là một thực tế chưa hợp lý.

Thứ hai, việc bảo đảm tính khả thi của một số văn bản trong hoạt động thẩm tra, hoạt động chỉnh lý, hoàn thiện dự án của Hội đồng, Ủy ban còn có những điểm hạn chế, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ QH. Tính khả thi của văn bản pháp luật đòi hỏi sau khi văn bản được ban hành và có hiệu lực, các quy định của văn bản phải được thực thi trong thực tế, phù hợp với yêu cầu thực tế. Trong khi đó, yêu cầu bảo đảm tính cụ thể hóa, giảm tình trạng phải chờ đợi văn bản hướng dẫn thi hành là một chủ trương quan trọng được Đảng ta đề ra từ năm 1997 là “các luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm bớt tình trạng phải chờ đợi quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được” [11, tr.48]. Theo quy định tại Điều 43 Luật BHVBQPPL 2008 (nay là Điều 65 Luật BHVBQPPL 2015), bảo đảm tính khả thi của các quy định trong dự thảo văn bản là một yêu cầu đặt ra trong nội dung hoạt động thẩm tra của Hội đồng, Ủy ban.

Tuy nhiên, cho đến những năm gần đây, không ít văn bản sau khi được QH, UBTVQH ban hành lại không thi hành được ngay, vì có nhiều quy định phải chờ văn bản hướng dẫn. Các báo cáo tổng kết công tác của QH, UBTVQH, các cơ quan của


QH từ nhiệm kỳ QH khóa IX, X, XI, XII về chất lượng hoạt động lập pháp đều có đề cập đến vấn đề tính khả thi của các văn bản pháp luật được QH, UBTVQH thông qua vẫn còn không ít những hạn chế, vướng mắc, chưa bảo đảm, mà nội dung được đề cập nhiều nhất là tình trạng quy định chung chung, mang tính nguyên tắc, phải có văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết mới thi hành được; không ít văn bản có nhiều nội dung không phù hợp với thực tế [63, tr.4], [64, tr.6], [65, tr.14], [66, tr.248]. Sang đến nhiệm kỳ QH khóa XIII, đánh giá của Phó Chủ tịch QH Uông Chu Lưu khi kết thúc phiên thảo luận của QH ngày 22/11/2013 về tình hình triển khai thi hành các luật, nghị quyết đã được QH khóa XIII thông qua có nêu: “các vị ĐBQH đều cho rằng pháp luật của chúng ta trong những năm gần đây ban hành khá nhiều nhưng vẫn chậm đi vào cuộc sống, chưa phát huy đầy đủ hiệu lực, hiệu quả... Trong quá trình thẩm định, thẩm tra vẫn đang còn biểu hiện lợi ích nhóm, cục bộ và văn bản thiếu tính khả thi” [116]. Trong khi đó, Chính phủ cũng đánh giá tình trạng “nợ đọng” trong việc ban hành văn bản hướng dẫn luật, pháp lệnh khá lớn cho đến hiện nay vẫn còn là vấn đề nhức nhối [6, tr.11]. Việc tồn tại tình trạng “luật khung”, không thi hành được ngay, phải “chờ” ban hành văn bản hướng dẫn một mặt không bảo đảm hiệu lực thi hành, mặt khác, có thể dẫn đến nguy cơ văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa đi quá xa so với văn bản gốc nếu không có sự giám sát, kiểm soát cẩn trọng, và xét đến cùng điều này gây tác động bất lợi đến đời sống kinh tế-xã hội của đất nước cũng như làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực này.

Có thể nói, chất lượng các văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết phụ thuộc rất lớn vào quy trình, thủ tục soạn thảo, thẩm tra, xem xét cho ý kiến, việc chỉnh lý hoàn thiện dự thảo để trình QH, UBTVQH xem xét thông qua. Về mặt pháp lý, với quy trình của Luật BHVBQPPL 2008 (Luật BHVBQPPL 2015 hiện hành cũng tương tự), Thường trực Hội đồng, Ủy ban chủ trì thẩm tra được giao trách nhiệm chính trong việc giúp UBTVQH nghiên cứu tiếp thu chỉnh lý hoàn thiện dự án, dự thảo để trình UBTVQH, QH xem xét thông qua, song trên thực tế qua các nhiệm kỳ QH gần đây cho đến hiện nay, chất lượng hoạt động này còn có những hạn chế. Gần đây nhất, một chính sách được xem là có lợi cho người lao động (quy định việc người lao động sẽ được giải quyết bảo hiểm xã hội một lần, nhưng phải đợi đến tuổi nghỉ hưu - Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016), nhưng chưa kịp đến thời điểm có hiệu lực, sau khi đối chiếu với thực tế, nhiều ý kiến từ phía công nhân, người lao động (trong đó có hàng chục ngàn công nhân Công ty TNHH


Pouyuen Việt Nam (quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh) đã bày tỏ sự không đồng tình với quy định này. Nhận định nguyện vọng của đa số người lao động là hợp lý, phù hợp với thực tế, để kịp thời giải quyết tình huống này, Chính phủ đã thống nhất kiến nghị với QH xem xét lại Điều 60 [136]... Nhận định từ phía thành viên Ủy ban của QH cũng cho rằng việc bảo đảm tính khả thi là vấn đề chính thuộc trách nhiệm và năng lực của Hội đồng, các Ủy ban:

QH đã được tăng cường các cơ quan thường trực, tăng cường ĐBQH chuyên trách ở HĐDT, các Ủy ban và quy trình lập pháp của QH thì 70-80% quy trình lập pháp thuộc QH nhưng QH vẫn ban hành các luật có rất nhiều quy định chỉ mang tính nguyên tắc chung chung, cụ thể giao cho Chính phủ ban hành. Đây là phần hạn chế khiếm khuyết về phía QH mà đặc biệt các cơ quan của QH phải nhận trách nhiệm về vấn đề này [116].

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này ngay từ khâu đầu tiên là khâu soạn thảo cho đến khâu thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện xem xét thông qua của QH. Ở công đoạn thẩm tra, như nhận xét của ĐBQH Chu Sơn Hà tại phiên thảo luận ngày 22/11/2013 kỳ họp thứ 6 QH khóa XIII, thì vẫn còn tình trạng một số Ủy ban “thẩm tra chay”, thiếu vắng việc khảo sát thực tiễn trước khi tổ chức thẩm tra và điều này tác động tiêu cực đến chất lượng thẩm tra các dự án [116]. Điều này đã dẫn đến những tác động ngược trong thực tế, nhiều khi không nằm trong mục đích của các nhà lập pháp như ví dụ nêu trên về quy định “công nhân có lương hưu” tại Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Trong khi đó, trong Luật BHVBQPPL 2008 cũng như Luật BHVBQPPL 2015 chưa có quy định mang tính bắt buộc về việc khảo sát, lấy ý kiến các đối tượng liên quan, đặc biệt là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp trong giai đoạn thẩm tra và ở giai đoạn chỉnh lý trước khi trình QH, UBTVQH xem xét thông qua.

Đặc biệt, công đoạn chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản trước khi trình QH, UBTVQH xem xét thông qua thời gian qua bên cạnh việc chưa đồng bộ, thống nhất về cách thức triển khai, còn chưa nhấn mạnh đầy đủ yêu cầu về mức độ chi tiết đối với dự thảo văn bản, xu thế “ủy quyền lập pháp” dường như chưa được kiềm giữ một cách thật hợp lý. Theo đánh giá của Đảng đoàn QH, do chưa có quy định đầy đủ, cụ thể, thống nhất về cách thức tổ chức việc chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật, pháp lệnh, quy trình chỉnh lý giữa các Uỷ ban của QH, thậm chí trong một Ủy ban


chưa thống nhất, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo đảm chất lượng của các dự án nói chung [15]. Trong điều kiện thực tế ở nước ta, khi phần lớn các dự án luật trình QH là do Chính phủ trình, vai trò của QH nói chung và HĐDT, các Uỷ ban nói riêng trong hoạt động lập pháp chủ yếu thể hiện ở hoạt động thẩm tra, và nhất là việc chỉnh lý các dự án để xem xét thông qua thì đây là một “nhược điểm” lớn về chính sách; có thể nói việc còn bỏ ngỏ, thiếu vắng quy trình này, chưa nói về nội dung, đã phần nào thể hiện việc chưa nhận diện đúng mức về giá trị, tầm quan trọng của một phần việc chính yếu trong hoạt động lập pháp ở nước ta hiện nay. Mặt khác, nếu Hội đồng, Ủy ban không làm kỹ, không chỉnh lý, hoàn thiện một cách kỹ lưỡng dự thảo văn bản, thì tình trạng như một vị cựu ĐBQH nhận xét là “làm văn tập thể” [35, tr.6] tại kỳ họp QH còn tiếp tục xảy ra.

Thứ ba, việc bảo đảm tính hợp hiến của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật trong hoạt động thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự án trong không ít trường hợp còn chưa đạt yêu cầu. Theo quy định của Luật BHVBQPPL 2008, bảo đảm tính hợp hiến của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật là một trong số những nội dung thẩm tra chủ yếu mà Hội đồng, Ủy ban với vị trí, vai trò là cơ quan thẩm tra cần phải tập trung làm rõ (Điều 43), cũng như vai trò đặc thù của UBPL trong việc thực hiện nhiệm vụ này (Điều 46); Luật BHVBQPPL 2015 cũng ghi nhận tương tự. Bên cạnh đó, vai trò của cơ quan chủ trì thẩm tra, của UBPL trong việc bảo đảm tính hợp hiến của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật tiếp tục được khẳng định trong quá trình UBTVQH chỉ đạo việc nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo (các điều 51, 52, 53 và 54). Tuy nhiên, trong thực tế, tính hợp hiến của dự án, dự thảo với hệ thống pháp luật còn bộc lộ những nhược điểm, còn tồn tại tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo giữa một số văn bản trong hệ thống pháp luật. Đánh giá của QH khi tổng kết nhiệm kỳ khóa XI cho thấy, việc thực hiện nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến của hệ thống pháp luật đối với một số dự án luật, pháp lệnh còn hạn chế [65, tr.14]. Sang đến nhiệm kỳ QH khóa XII, đánh giá của UBPL cũng cho thấy việc thực hiện trách nhiệm bảo đảm tính hợp hiến của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết vẫn còn những hạn chế, bất cập. Do các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết gửi đến chậm, có trường hợp không gửi nên Thường trực Ủy ban không thể tổ chức thảo luận tập thể, thường chỉ phân công cho một đồng chí trong Thường trực tham gia với cơ quan chủ trì thẩm tra và chỉnh lý, hoàn thiện. Cá biệt, đối với một số dự án, dự thảo văn bản, đồng chí được phân công cũng không thể tham dự được đầy đủ

Xem tất cả 240 trang.

Ngày đăng: 23/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí