nước trong giai đoạn phát triển và bối cảnh quốc tế, đồng thời xây dựng các hệ thống chính sách, biện pháp phục vụ sản phẩm xuất khẩu và mở rộng thị trường ngoài nước.
Đến lượt mình, các doanh nghiệp sẽ thực hiện cụ thể và chi tiết, hiện thực hóa sự lựa chọn sản phẩm và thị trường. Sự ganh đua, cạnh tranh, tìm tòi, sáng tạo để phát triển và thâm nhập thị trường sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty và nâng cao năng lực xuất khẩu của đất nước.
Tuy nhiên, sự định hướng của chính phủ chỉ mang tính hướng dẫn, vạch đường chỉ lối, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, giảm bớt rủi ro trong kinh doanh chứ không mang tính bắt buộc, mệnh lệnh. Sản xuất cái gì, cho ai và số lượng bao nhiêu là những vấn để của doanh nghiệp. Định hướng của nhà nước là chỉ để giúp đỡ, hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các vấn đề đó.
1.6. Cơ hội
Cơ hội cũng được xem là một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đặc biệt đến lợi thế cạnh tranh cũng như việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Cơ hội có thể là sự thay đổi bất ngờ về công nghệ (như công nghệ sinh học, công nghệ vi điện tử); thay đổi về tỷ giá hối đoái; tăng mạnh cầu thế giới hay khu vực; quyết định chính trị của các Chính phủ nước ngoài; tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế lớn như WTO, kí kết các hiệp định song phương và đa phương khác…
Các cơ hội rất quan trọng bởi lẽ chúng tạo ra sự thay đổi bất ngờ cho phép dịch chuyển vị thế cạnh tranh. Chúng có thể tạo ra tiềm năng để các doanh nghiệp có thể khai thác để có được những lợi thế đáp ứng những điều kiện mới và khác biết. Cần tận dụng mọi cơ hội để để có thể hoạch định những chính sách sản phẩm và thị trường xuất khẩu thích hợp.
Lợi thế cạnh tranh quốc gia cũng như lợi cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạch định các chính sách về sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Cần tập trung vào việc tạo ra, duy trì, phát triển lợi thế cạnh tranh phù hợp với đặc điểm riêng, trình độ phát triển của thị trường và trình độ của
nền kinh tế, của từng ngành kinh tế đồng thời thích ứng với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
2. Nhu cầu trên thị trường thế giới
Bên cạnh lợi thế cạnh tranh, yếu tố chi phối và cũng có tính quyết định đối với việc lựa chọn sản phẩm xuất khẩu đó là yếu tố thị trường, bởi vì hàng hóa và thị trường là hai yếu tố cơ bản không thể tách rời nhau, và như Mác nói: “ Cuối cùng thì nhu cầu của tiêu dùng quyết định sản xuất” (C.Mác và Ph.Angghen toàn tập, 1993). Không hiểu được nhu cầu của thị trường thế giới, của từng nước, của từng khu vực cũng như không hiểu được khả năng cung cầu của họ về từng loại hàng hóa thì không thể có phương hướng đúng đắn về chiến lược xuất khẩu nói chung và sản phẩm xuất khẩu nói riêng. Các nước không thể không tính đến nhu cầu của thị trường khi xây dựng cơ cấu xuất khẩu dựa trên lợi thế so sánh của mình. Thị trường là một yếu tố động, nếu một nước không nắm bắt được những thay đổi đó của thị trường thì sẽ chỉ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng đã bão hòa, những mặt hàng lỗi thời không còn được ưa chuộng trên thì trường, và tất nhiên, không còn phù hợp với nhu cầu hiện tại thì thất bại là một yếu tố khó có thể tránh khỏi. Chính nhu cầu thị trường mới có tính chất quyết định đến quy mô sản xuất, cơ cấu sản xuất hay nói khác đi, cầu về sản phẩm đó trên thị trường mới giúp doanh nghiệp trả lời các vấn đề cơ bản: sản xuất cho ai, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào?
Có thể bạn quan tâm!
- Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam - thực trạng và giải pháp - 1
- Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam - thực trạng và giải pháp - 2
- Vai Trò Của Việc Lựa Chọn Sản Phẩm Và Thị Trường Xuất Khẩu
- Thực Trang Việc Lựa Chọn Sản Phẩm Và Thị Trường Xuất Khẩu Của Việt Nam
- Giai Đoạn Sau Khi Gia Nhập Wto – Từ 2007 Đến Nay
- Tình Hình Xuất Khẩu Một Số Mặt Hàng Chủ Lực Của Việt Nam Giai Đoạn 2000 – 2009
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Thế nhưng, việc nắm chắc được nhu cầu của thị trường về sản phẩm là một điều không đơn giản, đặc biệt với các nước đang phát triển. Hiện nay, để có được thông tin về thị trường thế giới, về nhu cầu cụ thể về một sản phẩm nào đó vẫn là một thách thức đối với các nước này. Vấn đề đặt ra đó là làm sao để các nước đang phát triển này đó là làm thế nào để có thể bám sát được thị trường thế giới, nắm bắt được những thay đổi cũng như những xu hướng thay đổi của thị trường để từ đó có những định hướng phù hợp mang lại hiệu quả cao.
III. Các chính sách lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Trong quá trình công nghiệp hóa ở các nước, việc đổi mới cơ cấu ngoại thương được thực hiện thông qua chính sách “đa dạng hóa ngoại thương”. Nội dung chủ
yếu của chính sách này là mở rộng diện mặt hàng và thị trường trên cơ sở tập trung ưu tiên có trọng điểm một số mặt hàng và một số thị trường chủ lực. Chính sách đa dạng hóa ngoại thương được triển khai trên hai hướng là đa dạng hóa sản phẩm và đa dạng hóa thị trường.
1. Chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu
1.1. Chính sách vĩ mô
1.1.1. Đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu
Đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu được thực hiện theo hướng củng cố và phát triển từ các ngành truyền thống. Sự thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Thời kì đầu những năm 50 và 60, khi nông nghiệp còn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, các cơ sở còn yếu kém, kĩ thuật lạc hậu thì sản phẩm thô và sơ chế chiếm gần như toàn bộ hàng xuất khẩu của các nước này. Đến những năm 70, với sự phát triển tương đối khá của công nghiệp chế biến và chế tạo, trong cơ cấu xuất khẩu của các nước, sản phẩm thô và sơ chế dần nhường chỗ cho sự tăng lên của các sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo như hàng dệt may, máy móc, thiết bị vận tải và các sản phẩm chế tạo khác. Từ những năm 80 đến nay, nhiều nước đang phát triển ở Châu Á đã đạt được một trình độ phát triển công nghiệp khá cao như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore được xếp vào hàng các nước công nghiệp mới (NICs). Các nước này ngày càng coi trọng khả năng xuất khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp đặc biệt là thiết bị điện tử. (Nguyễn Trần Quế, 1998).
Cơ cấu xuất khẩu của hầu hết các nước đó đã và đang thay đổi theo hướng giảm dần xuất khẩu thuần túy các loại tài nguyên thiên nhiên thô, sơ khai sang tăng dần xuất khẩu các hàng hóa có hàm lượng tài nguyên cao kết hợp hàm lượng lao động cao như các sản phẩm chế biến, gia công, lắp ráp, và khi nền công nghiệp đạt được một trình độ phát triển khá, họ tiến tới tăng dần sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao như máy móc, thiết bị và các sản phẩm kĩ thuật tinh vi, hiện đại.
Tóm lại, có thể khẳng định đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu là xu thế phổ biến và tất yếu của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
1.1.2. Xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Trước hết, Mặt hàng xuất khẩu chủ lực được hiểu là những hàng hóa có điều kiện sản xuất ở trong nước với hiệu quả kinh tế cao hơn những hàng hóa khác, có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia (Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải, 2006).
Một yếu tố then chốt của đa dạng hóa hàng hóa xuất khẩu là ưu tiên phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Điều này không có gì mâu thuẫn với xu hướng mở rộng diện mặt hàng, mà ngược lại chính trên cơ sở mở rộng diện mặt hàng, việc lựa chọn và phát triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực càng được thực hiện tốt hơn. Sự đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu chủ lực có thể góp phần khắc phục một số bất lợi trong lĩnh vực xuất khẩu của các nước đang phát triển, đó là:
- Đối với những nước thu nhập từ xuất khẩu dựa gần như toàn bộ vào một hoặc hai mặt hàng, thì việc tăng thêm số lượng mặt hàng chủ lực có thể giúp những nước đó tránh được những thiệt hại to lớn do những biến động cung cầu, giá cả bất lợi trên thị trường thế giới có thể xảy ra cho hàng hóa đó.
- Đối với những nước hàng hóa xuất khẩu ở vào tình trạng phân tán, manh mún chưa có hàng chủ lực, thì việc tập trung ưu tiên xây dựng và phát triển một số mặt hàng chủ lực là tất yếu. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực góp một phần vô cùng quan trọng trong việc phát triển xuất khẩu cũng như đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế cho các nước đó. Đó là một nhu cầu bức thiết vừa cho trước mắt, vừa cho lâu dài.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: vậy mỗi nước cần bao nhiêu mặt hàng xuất khẩu chủ lực? Kinh nghiệm của các nước đang phát triển Châu Á trong mấy năm gần đây cho thấy, mỗi nước nên tập trung ưu tiên cao cho việc phát triển từ 5 đến 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực tuy không nhiều, thế nhưng khối lượng và giá trị xuất khẩu lớn. Điều này có ý nghĩa chiến lược lâu dài và quyết định đối với sự thành bại của hoạt động xuất khẩu của một số nước. Số lượng từ 5 đến 10 mặt hàng như vậy cho phép khắc phục tình trạng thị trường bất lợi cho mặt hàng này hay cho mặt hàng kia, không những thế, khi điều kiện thuận
lợi có thể lựa chọn một vài trong số mặt hàng đó để tập trung phát triển quy mô lớn, kịp thời chớp lấy những thời cơ tốt của thị trường thế giới.
1.2. Chính sách vi mô
1.2.1. Chính sách mở rộng trực tiếp
Chính sách mở rộng trực tiếp là việc giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp tới một thị trường nước ngoài mà không cần bất kì sự thay đổi nào của sản phẩm đó (Lê Thanh Hà, Nguyễn Trung Tính, 2005).
Thực chất đây là chiến lược dựa trên quan điểm toàn cầu hóa sản phẩm. Trong trường hợp này, chủ trương của doanh nghiệp là giữ nguyên sản phẩm như nó được bán trên thị trường nội địa, đồng thời tìm kiếm khách hàng nước ngoài quan tâm. Chính sách này tuy tiết kiệm được chi phí nhưng chỉ thích hợp với một số sản phẩm nhất định như nguyên liệu thô, nguyên liệu chế biến dùng trong sản xuất công nghiệp có khả năng toàn cầu hóa cao đối với các thị trường khác hoặc khi trên thị trường nước ngoài có những phần thị trường tương tự như thị trường nội địa.
1.2.2. Chính sách thích nghi sản phẩm
Chính sách thích nghi sản phẩm là việc thay đổi sản phẩm nhằm thỏa mãn yêu cầu và thị hiếu của thị trường nước ngoài. Sự thích nghi này được tiến hành từng phần hoặc toàn bộ đối với thành phần chất lượng của sản phẩm (thay đổi tính năng kĩ thuật, tạo ra những công dụng mới cho sản phẩm, thay đổi bao bì sản phẩm, cải tiến các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm…) (Lê Thanh Hà, Nguyễn Trung Tính, 2005).
Để thực hiện được chính sách này, doanh nghiệp cần tiến hành các bước:
- Nghiên cứu chu kì sống quốc tế của sản phẩm: nói đến chu kì sống của sản phẩm thì phải gắn sản phẩm đó với một thị trường nhất định. Khi xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải biết được sản phẩm của mình đang ở gia đoạn nào thuộc chu kì sống của nó trên thị trường nghiên cứu. Việc nghiên cứu và phân tích chu kì sống của một sản phẩm trên thị trường nước ngoài nhằm xác định chính sách marketing thích hợp cho từng giai đoạn của chu kì sống, kéo dài thời gian cho những giai đoạn có tỷ suất lợi nhuận cao và rút ngắn những giai đoạn thua lỗ.
- Tạo ra những công dụng mới cho sản phẩm: mục đích của chính sách này là làm cho sản phẩm thích ứng với thị trường nước ngoài và kéo dài chu kì sống
của nó. Đây là vấn đề hết sức khó khăn vì ở mỗi thị trường lại có thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Cần tập trung và thiết kế nhãn mác hàng hóa để tiêu chuẩn hóa kĩ thuật sản phẩm.
Ý định về một sản phẩm mới cần xuất phát từ giác độ của cả người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng thì việc sản phẩm đó có đáp ứng yêu cầu của họ không, có rẻ hơn không, có dễ sử dụng hơn không, chất lượng có tốt hơn không là những điều mà họ quan tâm. Còn về phía doanh nghiệp vấn đề được đưa ra là sản phẩm sẽ mang về bao nhiêu lợi nhuận, lượng bán và doanh số có đảm bảo không, khả năng tài chính có đủ không, có phải đầu tư thêm phương tiện sản xuất mới không, có phải thiết kế các kênh phân phối mới không. Trước khi tung sản phẩm mới ra thị trường cần nghiên cứu kĩ các thông tin trên thị trường và khi giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường cần phải dựa và các chính sách chung về marketing.
1.2.3. Chính sách chủng loại sản phẩm
Chính sách chủng loại sản phẩm là một bộ phận chính sách quốc tế chung về sản phẩm. Nó liên quan đến các tuyến sản phẩm mà doanh nghiệp định đưa ra bán tại thị trường nước ngoài. Chính sách chủng loại sản phẩm bị chi phối bởi các yếu tố trên thị trường nước ngoài cũng như năng lực tài chính và sản xuất của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xác định rõ mục tiêu của mình trong việc mở rộng ra thị trường nước ngoài là tăng lợi nhuận, doanh số hay mở rộng thị phần, là việc hạn chế rủi ro hay tận dụng năng lực sản xuất thừa, cần xác định rõ tuyến sản phẩm hiện tại đã tận dụng hết các nguồn lực của mình hay chưa.
Các nhân tố ngoại sinh ảnh hưởng tới quyết định chính sách sản phẩm của doanh nghiệp là: sự khác biệt về đặc điểm nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng tại thị trường khác nhau; các giá trị văn hoá và xã hội ảnh hưởng lớn đến hành vi và những định kiến của người tiêu dùng về sản phẩm; các yếu tố cạnh tranh trên thị trường như loại sản phẩm và khả năng cạnh tranh của chúng, mức độ thoã mãn nhu cầu thị trường của các sản phẩm cạnh tranh đó; mức độ cạnh tranh lớn và chi phí thâm nhập thị trường cao thì doanh nghiệp có thể phải bằng lòng với tuyến sản phẩm hẹp phục vụ cho những phần thị trường chọn lọc; hệ thống phân phối đang tồn tại
trên thị trường; các quy định về sản phẩm và bao gói, quy định về nhập khẩu, các điều kiện về tự nhiên, khí hậu, địa lý, trình độ phát triển kinh tế của thị trường đó.
2. Chính sách lựa chọn thị trường xuất khẩu
2.1. Chính sách vĩ mô
Lựa chọn một cách hợp lý, đề xuất và thực thi chiến lược thị trường xuất khẩu đúng đắn là một trong những khâu quan trọng làm tăng mức xuất khẩu của các nước. Ở hầu hết các quốc gia, quá trình đẩy mạnh xuất khẩu trên thực tế là quá trình khai thác thị trường theo hai hướng: tìm kiếm thị trường mới và tăng mức xuất khẩu trên các thị trường hiện có. Có nghĩa là các quốc gia đều cố gắng tăng xuất khẩu bằng mọi cách, tránh sự tập trung quá mức vào một thị trường nào đó, tức là phải đa dạng hoá thị trường xuất khẩu để đảm bảo xuất khẩu tăng nhanh và ổn định.
Trong hoàn cảnh phát triển có nhiều bất lợi, diễn biến kinh tế thế giới biến động các nước đang phát triển luôn phải thay đổi, điều chỉnh linh hoạt các chính sách để có một chiến lược có hiệu quả. Các nước muốn đa dạng hoá thị trường xuất khẩu cần tăng cường các hoạt động mở mang thị trường theo nhiều phương vị, nhiều tầng nấc, nhiều phương thức mà trọng tâm là đa dạng hoá thị trường. Nếu các nước không thể xây dựng cho mình một mạng lưới thị trường xuất khẩu thì thất bại là điều chắc chắn. Tuy nhiên, bên cạnh đó các nước cần tập trung vào một số thị trường trọng điểm mà mình có khả năng xuất khẩu để làm bàn đạp cho chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Do vậy, một chính sách đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá bạn hàng sẽ giúp cho các nước cân bằng trong chiến lược hội nhập kinh tế thế giới, giảm được tổn thất xảy ra khi có những biến động bất thường, góp phần ổn định nền kinh tế trong nước cũng như nền kinh tế toàn cầu. Các nước cần tăng cường hợp tác chiều sâu, giảm sự phụ thuộc vào từng nước riêng lẻ để phân tán các nhân tố rủi ro.
2.2. Chính sách vi mô
Song song với chiến lược, chính sách đa dạng hoá thị trường xuất khẩu các nước cần xây dựng cho mình các thị trường xuất khẩu trọng điểm. Chính những thị trường này sẽ giúp các nước củng cố vị thế của mình nhanh chóng, đẩy mạnh được
xuất khẩu. Các nước chủ yếu nhằm vào các thị trường có dung lượng lớn, có khả năng thanh toán cao, có nhu cầu đa dạng có như vậy như thị trường Mỹ, thị trường EU, thị trường Nhật Bản... Khi thâm nhập vào các thị trường này, các nước sẽ gặp phải các rào cản thuế quan và phi thuế quan, tuy nhiên với những chiến lược đã hoạch định sẵn, các thị trường này sẽ đem lại cho các nước xuất khẩu sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nhanh chóng. Các thị trường này thường là các thị trường khó tính, đòi hỏi các tiêu chuẩn chất lượng cũng như kỹ thuật cao, do đó cần có bước chuẩn bị tốt trước khi bắt đầu thâm nhập, sự thành công của lần thâm nhập đầu tiên sẽ quyết định tất cả.
Các thị trường trọng điểm này sẽ là bước đệm vững chắc để thâm nhập vào thị trường thế giới nếu được xác định thích hợp với khả năng cạnh tranh, khả năng cung cấp. Thành công tại thị trường này sẽ tạo uy tín do đó các nước sẽ dễ dàng thâm nhập vào các thị trường khác. Tuy nhiên đầu tư ban đầu cho các thị trường này tương đối cao và đòi hỏi các nước xuất khẩu phải có chiến lược cụ thể, có sự nghiên cứu sâu sát thị trường cần thâm nhập đó.