động rẻ, tài nguyên phong phú và nguồn vốn dồi dào. Điều này đặt ra sự phân chia các nhóm nước và khẳng định vai trò của từng nhóm nước với những lợi thế so sánh tương ứng để bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển. Bằng lợi thế bên trong của mình về thị trường, lao động tài nguyên, các nước đang phát triển vẫn có thể tham gia vào nấc thấp hơn của sự chuyển dịch cơ cấu toàn cầu. Tuy nhiên để có thể tận dụng được tối đa những lợi thế đó, các nước cần xác định một cơ chế xuất khẩu phù hợp dựa trên tiềm năng, nội lực của mình. Các nước sẽ tạo ra được hiệu quả xuất khẩu như mong muốn, khai thác tối đa tiềm năng khi nước đó tạo được cơ cấu sản phẩm xuất khẩu tối ưu, một hệ thống thị trường xuất khẩu đảm bảo khả năng phát triển dài hạn.
Kinh nghiệm của Nhật Bản và các nền kinh tế mới cho thấy, những thành tựu kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng trong thời kỳ công nghiệp hoá có sự đóng góp quan trọng của chính sách lựa chọn sản phẩm chủ lực và thị trường ưu tiên. Nhờ chính sách này mà các nguồn tài nguyên, vật lực đã được tập trung cao cho các sản phẩm có lợi thế so sánh, phát triển sản xuất các sản phẩm có ưu thế về quy mô, khai thác được tiềm năng tăng trưởng cao và hiệu quả.
2.2. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Trong bối cảnh biến động nền kinh tế thế giới như vậy, các nước đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế không còn con đường nào khác là phải lựa chọn chiến lược xuất khẩu phù hợp. Điều đó có nghĩa là, cần xác định sản phẩm và thị trường xuất khẩu sao cho có thể phát huy tối đa lợi thế của mình. Thực chất của chiến lược này là phát huy lợi thế của sản xuất trong nước, đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Để đẩy nhanh phát triển ngoại thương, chúng ta cần phải thực hiện phương châm đa dạng hóa sản phẩm và đa phương hóa thị trường, đi cùng với việc đó là phát triển sản phẩm chủ lực và thị trường trọng điểm. Chính vì vậy, vấn đề lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu được coi là vấn đề cốt lõi. Lựa chọn đúng sản phẩm và thị trường xuất khẩu nhằm mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu và thu được hiệu quả cao, từ đó thúc đẩy ngoại thương phát triển, góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế đối ngoại, xuất khẩu đã luôn được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản và hết sức quan trọng, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển nói chung, phương tiện chính để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và nhu cầu nhập khẩu hàng hóa thiết bị phục vụ sản xuất tiêu dùng nói riêng, góp phần thanh toán dần nợ nước ngoài. Việc lựa chọn sản phẩm xuất khẩu phù hợp sẽ tạo ra các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia. Đó sẽ là nguồn quan trọng sẽ thúc đẩy sự gia tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó. Chính vì vậy, đất nước nào có một cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp nhất với năng lực sản xuất và xu thế phát triển trong từng giai đoạn thì hoạt động xuất khẩu của nước đó sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao, có nghĩa là thu được nhiều ngoại tệ, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và từ đó dẫn tới góp phần làm tăng ngân sách và cũng tạo điều kiện cải thiện đáng kể cán cân thương mại.
Sản phẩm phù hợp sẽ không thể mang lại hiệu quả kinh tế cao nếu như không có thị trường phù hợp với sản phẩm đó. Chính vì vậy, song song với việc lựa chọn sản phẩm, lựa chọn thị trường xuất khẩu cũng vô cùng quan trọng trong chính sách ngoại thương của một nước. Nền kinh tế thế giới phát triển, ngoại thương không còn mang ý nghĩa đơn thuần là các hoạt động mua bán thông qua xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ nữa mà còn là sự phụ thuộc tất yếu lẫn nhau giữa các nước trong phân công lao động quốc tế. Chiến lược về điều tra nghiên cứu thị trường để đưa ra các quyết định lựa chọn thị trường cho sản phẩm của một công ty hay một quốc gia được coi là chính sách đầu tiên và quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định trong chính sách ngoại thương.
Thị trường là một hiện tượng động, nhất là thị trường quốc tế. Nó luôn vận động và biến đổi theo quy luật riêng dưới sự tác động của các nhân tố như môi trường kinh tế quốc tế, thời gian, tình hình kinh tế - xã hội của từng quốc gia, của khu vực cũng như của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì lẽ đó, việc điều tra nghiên cứu để lựa chọn thị trường cho hoạt động xuất khẩu của một nước là hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan như môi trường kinh tế
vĩ mô, môi trường luật pháp, văn hóa, chính trị - xã hội và quan trọng hơn là việc xem xét, phân tích, đánh giá cơ cấu tiêu dùng của một quốc gia để xác định thị trường có tiềm năng hay không. Các quốc gia khác nhau lại có cơ cấu tiêu dùng khác nhau. Các nước giàu thường nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất, trong khi các nước nghèo lại chú trọng vào nhập khẩu hàng tiêu dùng. Trong giai đoạn chuyển tiếp giữa thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu, điều tra lựa chọn thị trường một cách hợp lý có tính chất quyết định trong việc đảm bảo mục tiêu phát triển sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, tăng trưởng và phát triển kinh tế trong điều kiện tiềm lực còn yếu kém ở các nước phát triển. Trong thời kì này, về căn bản các nước đang phát triển thường lựa chọn thị trường có dung lượng lớn, sức tiêu thụ cao, nhằm tranh thủ các lợi thế cạnh tranh về chi phí nguyên vật liệu và công lao động rẻ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng cao ở rất nhiều nước trong vài thập kỉ qua kể từ khi thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, một phần là nhờ vào yếu tố biết phân tích và lựa chọn hợp lý này.
Vào những năm 60, chiến lược của Nhật Bản trong thời kì này là mở rộng xuất khẩu sang các thị trường Châu Á nhằm độc chiếm các thị trường này. Chính chiến lược thị trường hợp lý đó cùng việc thi hành các chính sách ngoại thương khác đã tạo ra sự bùng nổ xuất khẩu. Kể từ cuối những năm 70 trở đi, các sản phẩm của Nhật Bản không còn phụ thuộc phần lớn vào các thị trường Châu Á nữa do các thị trường này chỉ chấp nhận những sản phẩm chế tạo có hàm lượng giá trị không cao. Chính vì lý do đó, cộng với sự cạnh tranh về thị trường của các quốc gia đang phát triển ngày càng gia tăng, chiến lược lựa chọn thị trường của Nhật Bản đã chuyển sang các nước phát triển đặc biệt là Mỹ và Tây Âu. Với sự lựa chọn thị trường và sản phẩm cho thị trường đó hợp lý, Nhật Bản đã tạo ra những ảnh hưởng có tính chất quyết định đối với sản xuất trong nước cũng như chiến lược đầu tư ra nước ngoài. (Nguyễn Trần Quế, 1998).
Thị trường thế giới luôn là yếu tố động và hết sức nhạy cảm. Chính nó sẽ quyết định chính sách sản phẩm. Chiến lược thị trường và sản phẩm hợp lý chính là điều kiện tiên quyết để có được một chính sách ngoại thương hiệu quả trong xu hướng mở cửa nền kinh tế trên toàn cầu.
Có thể bạn quan tâm!
- Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam - thực trạng và giải pháp - 1
- Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam - thực trạng và giải pháp - 2
- Các Chính Sách Lựa Chọn Sản Phẩm Và Thị Trường Xuất Khẩu
- Thực Trang Việc Lựa Chọn Sản Phẩm Và Thị Trường Xuất Khẩu Của Việt Nam
- Giai Đoạn Sau Khi Gia Nhập Wto – Từ 2007 Đến Nay
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
II. Cơ sở cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Sự lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu dựa trên nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau. Sự lựa chọn đó hình thành chiến lược quốc gia cũng như của các doanh nghiệp về sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Đối với các nền kinh tế đang phát triển cơ sở chủ yếu để họ có thể lựa chọn sản phẩm xuất khẩu chính là lợi thế cạnh tranh có thể tạo ra được trên cơ sở điều kiện nguồn lực quốc gia trong từng giai đoạn phát triển, nhu cầu và xu hướng biến đổi nhu cầu trên thị trường thế giới. Trong đó lợi thế cạnh tranh không chỉ đơn thuần dựa vào các nguồn lực quốc gia sẵn có mà còn phải chủ động tạo ra, muốn như vậy thì phải có những định hướng và đầu tư dài hạn.
1. Lợi thế cạnh tranh
Đây chính là yếu tố tổng hợp nhất có tính quyết định ảnh hưởng đến chính sách lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Cần phải sử dụng lợi thế này để tạo ra các sản phẩm đồng thời tìm kiếm các thị trường xuất khẩu sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Lợi thế cạnh tranh được đánh giá trên ba cấp độ: Lợi thế cạnh tranh quốc gia, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh của ngành, sản phẩm. Trong đó, lợi thế cạnh tranh quốc gia được xem là yếu tố bao trùm lên tất cả.
Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia được Michael Porter nghiên cứu và đưa ra vào những năm 1990. Mục đích của lý thuyết này là giải thích tại sao một số quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm, hay nói cách khác đi tại sao những quốc gia có lợi thế cạnh tranh về một số sản phẩm. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lập luận rằng khả năng cạnh tranh của một ngành công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Điều này được khái quát cho một thực thể lớn hơn – một quốc gia.
Hình 1: Mô hình khối kim cương của M.Porter
Chính phủ
Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành
Điều kiện các yếu tố sản xuất
Điều kiện về cầu
Các ngành hỗ trợ và có liên quan
Cơ hội
(Giáo trình Kinh tế Ngoại Thương, 2006)
Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố. Mối liên kết của 4 nhóm này tạo thành một mô hình kim cương. Các yếu tố đó bao gồm:
- Điều kiện các yếu tố sản xuất
- Điều kiện về cầu
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ có liên quan
- Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành
Bốn yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia. Ngoài ra còn có hai yếu tố khác là chính sách của Chính phủ và cơ hội. Đây là hai yếu tố có thể tác động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên.
Dựa trên việc phân tích lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương của M.Porter, cơ sở để lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của một quốc gia sẽ dựa trên lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó, được thế hiện ở các yếu tố sau:
1.1. Nguồn lực đầu vào
Lợi thế cạnh tranh quốc gia thể hiện ở điều kiện các yếu tố sản xuất chính là nguồn lực đầu vào. Đây là ưu thế giữa các quốc gia về lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai và công nghệ. Các quốc gia tận dụng ưu thế này để tạo ra sản
phẩm có chi phí thấp. Một nước đông dân, ít vốn, lao động rẻ thì trước hết phải định hướng sản xuất ra các mặt hàng sử dụng nhiều lao động (thí dụ như sự lựa chọn của các nước Đông Á trong thời kì đầu của quá trình công nghiệp hóa là khai thác tài nguyên và phát triển các mặt hàng sử dụng nhiều lao động để xuất khẩu).
Tuy nhiên, lợi thế cạnh tranh của bất kì nước nào cũng chỉ có tính chất tương đối, luôn luôn trong quá trình biến động và phát triển. Vì vậy cơ cấu xuất khẩu theo mặt hàng cũng phải thay đổi. Tính quy luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ, không cần tay nghề cao như sản phẩm dệt may, da giày…sang các sản phẩm nhiều lao động có tay nghề cao như ngành hóa chất, điện tử, sắt thép…và cuối cùng chuyển sang các sản phẩm cần nhiều vốn và công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hóa…Nguồn lực đầu vào là một cơ sở vững chắc giúp các nước này xây dựng cơ cấu xuất khẩu phù hợp nhất với thực lực của mình, bởi rõ ràng là các nước dù muốn phát triển đến đâu cũng không thể không tính đến thực lực của mình. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật và công nghệ, các nước cần phải chuẩn bị cho mình một hướng đi thích hợp để một mặt vẫn tranh thủ được những tiến bộ khoa học kĩ thuật, những cơ hội giành cho nước đi sau, mặt khác vẫn có thể khai thác được tối đa lợi thế của mình, trên cơ sở đó đi xây dựng một cơ cấu xuất khẩu hoàn thiện, đem lại lợi ích tối đa cho sự phát triển kinh tế trong môi trường kinh tế toàn cầu cạnh tranh.
1.2. Điều kiện nhu cầu trong nước
Như trên đã nói, lợi thế cạnh tranh của quốc gia là yếu tố bao trùm lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ làm nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Nhu cầu trong nước chính là yếu tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Bản chất của nhu cầu trong nước sẽ xác định cách thức doanh nghiệp nhận thức, lý giải và phản ứng trước nhu cầu của người mua. Người mua đòi hỏi cao sẽ tạo áp lực giúp doanh nghiệp đáp ứng được tiêu chuẩn cao về chất lượng, đặc tính kĩ thuật và dịch vụ, từ đó nâng cao lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Không những thế, nhu cầu trong nước tăng nghĩa là
quy mô thị trường được mở rộng, điều này sẽ có tác dụng tạo ra lợi thế cạnh tranh trong những ngành có hiệu quả kinh tế nhờ quy mô. Như vậy có thể nói sự gia tăng nhu cầu trong nước không chỉ tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn cả cho sản phẩm và ngành, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia, là cơ sở để lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
1.3. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
Đối với mỗi doanh nghiệp, các ngành sản xuất hỗ trợ là những ngành sản xuất cung ứng đầu vào cho chuỗi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong nhiều ngành hỗ trợ và nhiều ngành liên quan sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, cung cấp trong thời gian ngắn với chi phí thấp, duy trì quan hệ hợp tác liên tục, giúp doanh nghiệp nhận thức được các phương pháp và cơ hội mới để áp dụng công nghệ mới...Như vậy các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan cũng tác động đến lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, và từ đó cũng tạo cơ sở để doanh nghiệp có thể xây dựng mặt hàng và tìm kiếm thị trường xuất khẩu.
1.4. Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh (Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp)
Việc đưa ra chiến lược, cơ cấu để cạnh tranh của các doanh nghiệp không chỉ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp đó mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh về ngành, từ đó tạo nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia.
Những khác biệt về trình độ quản lý và kĩ năng tổ chức như trình độ học vấn và hướng đích của cán bộ quản lý, sức mạnh động cơ cá nhân, các công cụ ra quyết định, quan hệ với khách hàng, thái độ đối với hoạt động quốc tế...sẽ tạo ra lợi thế hoặc bất lợi thế cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ tạo ra sức ép phải cải tiến đổi mới đối với các đối thủ cạnh tranh từ đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời cũng là để doanh nghiệp chuẩn bị tốt khi phải chịu áp lực cạnh tranh nước ngoài.
Bên cạnh đó, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp còn tạo ra sức ép làm thay đổi cách thức cải tiến lợi thế cạnh tranh: lợi thế cạnh tranh dựa nhiều hơn vào tính chất
độc đáo của sản phẩm và hàm lượng công nghệ hơn là lợi thế về tài nguyên và chi phí lao động. Như vậy, toàn bộ ngành sẽ tiến bộ nhanh hơn, những ý tưởng mới được phổ biến và ứng dụng nhanh hơn, điều đó sẽ tạo ra sức cạnh tranh cho ngành và sản phẩm.
Như vậy, chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh cũng có tác động không nhỏ đến lợi thế cạnh tranh quốc gia, để từ đó có thể tạo cơ sở lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
1.5. Cơ chế tác động, điều chỉnh chiến lược của Nhà nước
Trong xu thế tự do hóa thương mại và khu vực hóa nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì cơ chế tác động, điều chỉnh chiến lược của nhà nước là một yếu tố vô cùng quan trọng và ảnh hưởng to lớn đến việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
Nhà nước có tác động rất lớn đến lợi thế cạnh tranh quốc gia thông qua việc tác động tới 4 nhóm yếu tố trên và đồng thời cũng trực tiếp định hướng cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
Trước hết, Nhà nước thể hiện vai trò điều hành của mình nhằm tác động đến các nhân tố tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia dựa trên các mặt sau:
- Thứ nhất là định hướng phát triển thông qua chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế.
- Thứ hai là tạo môi trường pháp lý và kinh tế cho các chủ thể kinh tế hoạt động và cạnh tranh lành mạnh.
- Thứ ba là điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích một cách công bằng thông qua các công cụ ngân sách, thuế khóa, tín dụng…
- Thứ tư là kiếm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp luật và chính sách đề ra.
Mặt khác, Nhà nước cũng là cơ quan trực tiếp định hướng cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu thông qua việc nghiên cứu thị trường nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế của các viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý để định hướng các sản phẩm và thị trường xuất khẩu phù hợp với nguồn lực của đất