Công Nghiệp Là Nhân Tố Chủ Yếu Góp Phần Thực Hiện Những Nhiệm Vụ Kinh Tế - Xã Hội Của Đất Nước


1.4.3. Công nghiệp là nhân tố chủ yếu góp phần thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước

- Sự phát triển rộng rãi công nghiệp trên cơ sở khai thác các nguồn lực và phát huy lợi thế của mỗi vùng, đẩy mạnh giao lưu trao đổi hàng hóa sẽ tạo điều kiện giảm dần sự chênh lệch về kinh tế và xã hội giữa các vùng của đất nước.

- Sự phát triển công nghiệp về quy mô, tốc độ và trình độ sẽ kéo theo sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân. Hơn nữa, việc sử dụng các sản phẩm và các phương pháp công nghiệp trong các ngành kinh tế cũng làm thay đổi căn bản tính chất lao động của các ngành. Những yếu tố đó đã làm thay đổi cơ cấu lao động xã hội theo hướng tiến bộ.

- Sự phát triển công nghiệp tập trung là hạt nhân kinh tế của việc hình thành các cụm dân cư, các khu đô thị mới. Do vậy, quá trình đô thị hóa được thực hiện một cách vững chắc, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước, tạo cơ sở giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị, miền núi và miền xuôi.

1.4.4. Sự phát triển công nghiệp thúc đẩy sự thay đổi ý thức xã hội, tư duy và lối sống

Vai trò của công nghiệp không chỉ thể hiện ở sự tác động đến mặt vật chất và kỹ thuật của đời sống kinh tế - xã hội, mà còn tác động sâu sắc tới các mặt thuộc về ý thức xã hội.

Sự phát triển công nghiệp kéo theo sự phát triển của giai cấp công nhân công nghiệp. Từ đó, ý thức hệ của giai cấp công nhân đại công nghiệp – giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới - sẽ trở thành ý thức hệ chủ đạo của hình thái kinh tế - xã hội mới.

Nền sản xuất công nghiệp với tính chặt chẽ và nghiêm ngặt của quá trình sản xuất là nơi đào luyện con người về tính tổ chức kỷ luật, tư duy và tác phong trong lao động. Từ đó, phương pháp tư duy, tính tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp sẽ thay thế cho phương pháp tư duy, phong cách làm việc và lối sống theo kiểu tiểu nông gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp, thủ công, lạc hậu và phân tán.

Kết luận:Trên đây là những nội dung tổng quát thể hiện vai trò chủ đạo của công nghiệp. Trong những quan hệ kinh tế cụ thể, những nội dung ấy có những biểu hiện cụ thể khác nhau.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Ở những nước tiến hành công nghiệp hóa từ điểm xuất phát ban đầu là nền nông nghiệp lạc hậu, phân tán, sản xuất nhỏ mang nặng tính chất tự cung tự cấp, công nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Trong đó, công nghiệp tác động đến giải quyết vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn trên các khía cạnh chủ yếu sau:


Kinh tế công nghiệp và quản trị chất lượng - ĐH SPKT Nam Định - 3

- Sản xuất và cung cấp các sản phẩm vật chất để thực hiện các nội dung của cách mạng khoa học công nghệ trong nông nghiệp (thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, sinh học hóa) góp phần trực tiếp thúc đẩy đưa nông nghiệp lên trình độ sản xuất lớn.

- Chế biến các sản phẩm của nông, lâm, ngư nghiệp để một mặt nâng cao giá trị sử dụng của các sản phẩm ấy, mặt khác, thúc đẩy hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên canh với tỷ suất nông sản hàng hóa cao, xóa bỏ tình trạng tự cung tự cấp.

- Công nghiệp sản xuất và cung ứng cho dân cư nông thôn các hàng hóa tiêu dùng, để vừa góp phần cải thiện đời sống dân cư, vừa thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa ở nông thôn.

- Sự phát triển công nghiệp nông thôn trong đó có các ngành nghề thủ công nghiệp là phương hướng quan trọng của việc thực hiện phân công lao động tại chỗ, chuyển lao động từ khu vực có năng suất và thu nhập thấp sang khu vực có năng suất và thu nhập cao.

- Các doanh nghiệp công nghiệp còn trợ giúp việc đào tạo lao động nông thôn, cung cấp cho họ kỹ năng và nghề nghiệp cần thiết để sử dụng có hiệu quả các tư liệu sản xuất do công nghiệp cung cấp, đồng thời tạo điều kiện tiền đề để chuyển sang các ngành nghề phải nông nghiệp.

1.5. CÁC MÔ HÌNH CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP

Trong điều kiện ngày nay công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá, áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến. Công nghiệp được coi là phương tiện chuyển tải công nghệ mới vào cuộc sống. Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc xác định mô hình chiến lược phát triển công nghiệp phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại có ý nghĩa to lớn với việc phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững công nghiệp trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Có nhiều cách xác định mô hình chiến lược phát triển công nghiệp. Nếu căn cứ vào phương hướng phát triển và thị trường trung tâm của công nghiệp, có ba mô hình chiến lược phát triển công nghiệp: Mô hình chiến lược thay thế nhập khẩu (hướng nội); mô hình chiến lược hướng về xuất khẩu (hướng ngoại); mô hình chiến lược hỗn hợp (trung hòa).

1.5.1. Mô hình chiến lược thay thế nhập khẩu (hướng nội)

Chiến lược thay thế nhập khẩu đã được các nước đi tiên phong trong công nghiệp hóa thực hiện từ cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Nhiều nước đang phát triển áp dụng chiến lược này vào cuối những năm 50s và trong những năm 60s của thế kỷ 20.


Chiến lược này ra đời trong bối cảnh các nước bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa. Lúc đó, trình độ phát triển kinh tế trong nước còn thấp, đại bộ phận hàng hóa, trong đó chủ yếu là hàng tiêu dùng, phải nhập khẩu từ các nước có trình độ phát triển cao hơn. Để giải quyết tình trạng các nguồn lực trong nước không được khai thác có hiệu quả, sản xuất và tiêu dùng phụ thuộc vào nước ngoài, ngoại tệ luôn bị thiếu hụt. Chính phủ các nước đang phát triển đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa ngay trong nước, đặc biệt là hàng tiêu dùng để thay thế hàng hóa lâu nay vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đó chính là tư tưởng cơ bản của mô hình chiến lược thay thế nhập khẩu, hay còn gọi là mô hình chiến lược hướng nội vì lấy thị trường trong nước là trọng tâm trong định hướng phát triển các ngành công nghiệp. Thực hiện mô hình chiến lược này, Chính phủ kỳ vọng khai thác các nguồn lực sẵn có trong nước, tạo thêm việc làm, giải tỏa tình trạng căng thẳng về ngoại tệ.

Để thực hiện tư tưởng chiến lược trên, cần giải quyết một loạt vấn đề, trong đó chủ yếu là:

(1) Xác định tổng cầu các loại hàng hóa lâu nay vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài thông qua việc phân tích cơ cấu và sản lượng hàng hóa đã nhập khẩu, tổng số dân cư, cơ cấu dân cư và khả năng thanh toán của dân cư… Việc phân tích các yếu tố này cho phép thấy được chủng loại hàng hóa và dung lượng thị trường mỗi loại hàng hóa làm cơ sở để định hướng phát triển trong nước.

(2) Ban hành các chính sách khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trong nước thay thế hàng nhập khẩu. Các chính sách này bao gồm từ những ưu đãi về tín dụng đầu tư, thuế, đến những thủ tục đầu tư… nhằm tạo động lực thu hút các nhà đầu tư phát triển sản xuất.

(3) Ban hành các chính sách bảo hộ sản xuất trong nước như thuế quan bảo hộ, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp sản xuất trong nước. Thông thường, chính sách bảo hộ vận động qua ba giai đoạn: bảo hộ với cường độ cao trong giai đoạn đầu; giảm dần mức độ bảo hộ để thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước vươn tới trình độ cao hơn; cuối cùng, xóa bỏ bảo hộ khi các doanh nghiệp trong nước đủ sức khống chế thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế.

* Chính phủ có thể sử dụng các công cụ bảo hộ sau

- Bảo hộ bằng thuế quan:

+ Bảo hộ bằng thuế quan danh nghĩa: là hình thức đánh thuế vào hàng nhập khẩu có sức cạnh tranh với hàng sản xuất trong nước làm cho giá trong nước (Pt) cao hơn giá hàng trên thị trường quốc tế (Pf).

Khi giá cạnh tranh trên thị trường quốc tế thấp, các nhà sản xuất trong nước sản xuất ít hơn nhu cầu của người tiêu dùng (ở mức sản lượng Q2) dẫn đến tình trạng thiếu hụt hàng hóa (sản xuất ở mức sản lượng Q1), lượng hàng hóa thiếu hụt sẽ được nhập


khẩu với số lượng (Q2 – Q1). Nhà nước đánh thuế sẽ làm lượng hàng hóa nhập khẩu giảm từ (Q2 – Q1) thành (Q4 – Q3), giá cả tăng lên khuyến khích các doanh nghiệp tăng sản xuất đồng thời chính phủ thu được một khoản thuế.


D

S

AB

E F

D C

P


P0

Pt Pf


Q1 Q3 Q4 Q2 Q

Hình 1.1 Tác động của thuế quan và hạn ngạch


Hiệu quả của bảo hộ là: giá cả tăng lên kích thích tăng khả năng sản xuất trong nước làm sản lượng tăng từ Q1 đến Q3 và các doanh nghiệp tăng thêm lợi ích của mình (bằng phần diện tích hình tam giác AED); khối lượng hàng hóa nhập khẩu giảm, nhà nước thu được một khoản thuế đánh vào hàng nhập khẩu (bằng diện tích hình chữ nhật ABCD); nhưng lợi ích của người tiêu dùng giảm do giá tăng lên và số lượng sản phẩm giảm đi từ Q2 xuống Q4 (lợi ích của người tiêu dùng bị mất là phần diện tích hình tam giác BCF).

+ Bảo hộ bằng thuế quan quan thực tế: bên cạnh việc đánh thuế để tăng giá hàng

nội địa so với giá quốc tế, những người sản xuất trong những ngành công nghiệp non trẻ còn quan tâm đến việc đánh thuế nguyên vật liệu và đầu vào cho những ngành này. Bảo hộ thuế quan thực tế là sự tác động của hai loại thuế là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu và thuế đánh vào nguyên vật liệu nhập khẩu sao cho đảm bảo lợi nhuận cho nhà sản xuất.

- Bảo hộ bằng hạn ngạch: là hình thức nhà nước xác định trước khối lượng hàng nhập khẩu và cấp giấy phép nhập khẩu cho một số tổ chức có đủ tiêu chuẩn được nhập khẩu khối lượng hàng hóa này.

Tác động của công cụ bảo hộ bằng hạn ngạch cũng gần giống tác động của công cụ thuế quan là làm tăng khả năng sản xuất trong nước, nhà nước thu được một khoản chênh lệch giữa giá trong nước và giá nhập khẩu; lợi ích của người tiêu dùng giảm xuống do phải trả giá cao hơn và số lượng tiêu dùng ít đi. Tuy nhiên, sử dụng công cụ hạn ngạch khác công cụ thuế quan là các doanh nghiệp trong nước có thể chủ động điều chỉnh giá trên cơ sở cho phép của chính phủ và cân bằng trên thị trường.


Cần chú ý là việc thực hiện mô hình chiến lược thay thế nhập khẩu hoàn toàn không đồng nhất với việc xây dựng nền kinh tế khép kín, đóng cửa với bên ngoài. Để phục vụ phát triển sản xuất trong nước, Chính phủ vẫn cho phép: nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu từ nước ngoài; thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư và xây dựng doanh nghiệp; nhập khẩu một phần hạn chế hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Mô hình chiến lược thay thế nhập khẩu xuất phát từ những mục tiêu hết sức tích cực song kinh nghiệm thực tế cho thấy việc xây dựng cứng nhắc mô hình chiến lược này có tác động rất hạn chế đế việc thực hiện mục tiêu đặt ra vì một số nguyên nhân cơ bản sau:

- Thị trường trong nước không lớn và nhu cầu tiêu dùng của dân cư về một loại hàng hóa dần bị bão hòa là những cản trở trực tiếp với việc mở rộng quy mô sản xuất.

- Chính sách bảo hộ của chính phủ với hàng hóa thay thế nhập khẩu chậm được sửa đổi gây nên sự ỷ lại của các nhà sản xuất trong nước.

- Khả năng vươn ra thị trường nước ngoài rất hạn chế do hàng hóa kém sức cạnh tranh cả về kiểu cách, mẫu mã, chất lượng, giá cả.

- Tình trạng thiếu hụt về ngoại tệ không được giải tỏa vì các nhà sản xuất ưa thích nhập khẩu các yếu tố sản xuất từ nước ngoài hơn là khai thác ngay trong nước.

Chiến lược thay thế nhập khẩu còn hạn chế xu hướng công nghiệp hoá của đất nước. Chiến lược này thường bắt đầu bằng công nghiệp hàng tiêu dùng, sau đó tiếp tục tạo thị trường cho các ngành sản xuất các sản phẩm trung gian. Nhưng vì thị trường trong nước đối với các sản phẩm trung gian như hoá chất, luyện kim thường nhỏ hơn thị trường hàng tiêu dùng nên có những trở ngại đối với việc đầu tư vào lĩnh vực này.

1.5.2. Mô hình chiến lược hướng về xuất khẩu (hướng ngoại)

Trái với mô hình chiến lược thay thế nhập khẩu, mô hình chiến lược này lại lấy thị trường nước ngoài làm trọng tâm định hướng phát triển các ngành công nghiệp. Tư tưởng cơ bản của mô hình chiến lược này là phát huy lợi thế so sánh (tuyệt đối và tương đối) để tập trung phát triển một số ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu.

Sự hình thành mô hình chiến lược này dựa trên hai cơ sở chủ yếu:

- Thuyết lợi thế so sánh: tất cả các quốc gia khi tham gia vào các quan hệ thương mại quốc tế đều có thể thu được lợi nếu xuất khẩu những mặt hàng mà chi phí sản xuất trong nước nhỏ hơn chi phí bình quân quốc tế và nhập khẩu những sản phẩm mà chi phí sản xuất trong nước lớn hơn. Việc đánh giá đúng và khai thác hợp lý lợi thế so sánh của đất nước sẽ bảo đảm thu được lợi ích đó.

- Xu thế mở rộng phạm vi phân công lao động quốc tế và xu thế toàn cầu hóa kinh tế. Theo những xu thế này, kinh tế của mỗi nước là một bộ phận của kinh tế toàn cầu được phát triển trong thế phụ thuộc lẫn nhau. Trong điều kiện ngày nay, khi hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, mỗi nước đều phải tính đến những tác động của toàn


cầu hóa, hướng tới tranh thủ tối đa các cơ hội và có những giải pháp chủ động vượt qua những thách thức do toàn cầu hóa mang lại.

Để phát triển công nghiệp theo mô hình hướng về xuất khẩu, điều quan trọng hàng đầu là phải đánh giá đúng lợi thế so sánh và có giải pháp phát huy có hiệu quả lợi thế ấy. Với các nước đang phát triển, phát triển công nghiệp theo định hướng xuất khẩu thường được nhằm vào phát huy lợi thế về tài nguyên thiên nhiên phong phú và nhân lực dồi dào với giá rẻ.

Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nhằm phát huy lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, các nước đang phát triển thường tập trung phát triển các ngành công nghiệp khai thác và xuất khẩu sản phẩm thô sang các nước công nghiệp. Nói chung, việc thâm nhập thị trường quốc tế của các loại sản phẩm này dễ dàng hơn và mức độ cạnh tranh cũng thấp hơn so với các sản phẩm của công nghiệp chế biến. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô dựa chủ yếu vào việc sử dụng rộng rãi nguồn tài nguyên sẵn có và các điều kiện thuận lợi của đất nước. Sản phẩm xuất khẩu thô là những sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm khai khoáng. Chiến lược này chủ yếu được thực hiện ở các nước đang phát triển do điều kiện trình độ sản xuất còn thấp, đặc biệt là trình độ ngành công nghiệp và khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế còn hạn chế. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô tạo điều kiện để phát triển kinh tế theo chiều rộng. Khi cơ hội khai thác nông nghiệp nhiệt đới hay tài nguyên thiên nhiên xuất hiện sẽ có nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Sự phát triển thị trường sản phẩm sơ khai sẽ dẫn đến tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tích luỹ trong nước, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và tăng đội ngũ công nghân lành nghề, dẫn tới tăng quy mô sản xuất của nền kinh tế.

Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô cũng tạo ra sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế. Ban đầu là sự phát triển công nghiệp khai khoáng và ngành công nghiệp chăn nuôi, trồng cây lương thực và cây công nghiệp có khả năng xuất khẩu, đồng thời với những ngành này có sự phát triển công nghiệp chế biến, tạo ra những sản phẩm như gạo, cà phê, cao su… Sự phát triển của công nghiệp chế biến tạo cơ hội cho việc gia tăng xuất khẩu sản phẩm thô, nó lại có tác động ngược lại đối với các ngành cung ứng nguyên liệu, tạo ra mối liên hệ ngược. Tác động của mối liên hệ ngược đặc biệt có hiệu quả nhờ quy mô sản xuất lớn làm giảm chi phí sản xuất và tăng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô góp phần tạo ra nguồn vốn ban đầu cho công nghiệp hoá.

Tuy nhiên, xét về lâu dài, việc phát triển các ngành này gặp một số trở ngại cơ bản sau:

- Cung sản phẩm thô có khi tăng có khi giảm do các mặt hàng chưa qua chế biến hoặc sơ chế có nguồn gốc chủ yếu từ ngành nông nghiệp và khai khoáng, đây là những


ngành mà điều kiện sản xuất cũng như kết quả sản xuất chịu ảnh hưởgn rất lớn về thời tiết và khí hậu

- Cầu sản phẩm thô trên thị trường quốc tế tăng chậm và biến động do xu hướng biến động về cầu sản phẩm thô theo quy luật tiêu dùng là xu hướng tiêu dùng lương thực thực phẩm tăng chậm hơn mức tăng thu nhập. Và do tác động của sự phát triển khoa học công nghệ, sự thay đổi của công nghệ trong chế biến làm cho lượng tiêu hao nguyên vật liệu có xu hướng giảm, mặt khác sự phát triển khoa học công nghệ cho ra đời nhiều nguyên vật liệu nhân tạo cũng dẫn đến xu hương giảm nhu cầu về sản phẩm thô.

- Điều kiện trao đổi bất lợi cho nước nghèo, giá nguyên liệu tăng chậm, giá sản phẩm chế biến tăng nhanh. Giá của sản phẩm thô có xu hướng giảm so với hàng công nghệ

- Sự phát triển các ngành này lại phụ thuộc vào sự đầu tư của các nước công nghiệp.

Loại ngành thứ hai được phát triển dựa trên cơ sở khai thác lợi thế về lao động bao gồm công nghiệp dệt may, da giày, lắp ráp cơ khí và điện tử, một số loại sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Về cơ bản, sự phát triển các loại ngành này sẽ tạo ra nhiều việc làm mới với mức đầu tư cho mỗi việc làm không cao, qua đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp. Mặt khác, việc phát triển loại ngành này còn thể hiện việc đón nhận sự dịch chuyển các ngành sử dụng nhiều lao động từ các nước công nghiệp sang các nước đang phát triển. Do vậy, việc đưa sản phẩm này thâm nhập vào thị trường quốc tế, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển, không gặp nhiều khó khăn như với sản phẩm của ngành kỹ thuật cao. Sự phát triển mạnh các ngành này sẽ có tác động lan tỏa tích cực thúc đẩy sự hình thành và phát triển các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp kỹ thuật cao để bảo đảm thiết bị, phụ tùng và nhiều loại nguyên liệu khác. Đáng tiếc là không phải nước nào cũng có định hướng phát triển với những bước đi thích hợp để phát huy tác động lan tỏa này. Trong thời gian dài, sản xuất công nghiệp trong nước của nhiều nước chỉ thuần túy đóng vai trò gia công sản phẩm từ các nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài, việc sản xuất sản phẩm thực chất chỉ là một dạng của xuất khẩu lao động sống với giá rẻ.

Trong các giai đoạn tiếp theo của quá trình công nghiệp hóa, các ngành công nghiệp kỹ thuật cao dần được hình thành và cung cấp các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn cho xuất khẩu. Khác với hai nhóm ngành trên, việc đưa sản phẩm kỹ thuật cao của các nước đang phát triển vào thị trường quốc tế thường hết sức khó khăn vì phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt từ sản phẩm của các nước công nghiệp.

Sự thành công của mô hình chiến lược phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu phụ thuộc quan trọng vào sự quản lý vĩ mô của nhà nước, trong đó quan trọng nhất là:

- Định hướng hợp lý sự phát triển các ngành và các sản phẩm công nghiệp chủ lực trên cơ sở đánh giá đúng lợi thế so sánh của đất nước và nhu cầu thị trường quốc tế.


- Xây dựng và thực thi các chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu.

- Thực hiện có hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế.

- Tham gia các tổ chức liên kết kinh tế ở phạm vi khu vực và thế giới.

- Đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến xuất khẩu…

1.5.3. Mô hình chiến lược hỗn hợp (trung hòa)

Mô hình chiến lược hướng về xuất khẩu được nhiều nước đang phát triển thực hiện từ những năm 1960 tới đầu những năm 1980. Mô hình này đã đem lại thành công cho nhiều nước và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapore… Tuy nhiên, từ đầu những năm 1980, việc thực hiện mô hình chiến lược này gặp nhiều khó khăn: mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt; điều kiện chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp sang các nước đang phát triển khó khăn hơn; các nước công nghiệp dựng lên các rào cản thương mại nhằm bảo hộ sản xuất trong nước… Mặt khác, trong nhiều trường hợp, việc các nhà sản xuất trong nước quá chú ý tới thị trường nước ngoài lại dẫn tới bỏ trống thị trường trong nước, tạo điều kiện cho hàng hóa nước ngoài thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này.

Để khắc phục tình trạng trên, nhiều nước chuyển sang thực hiện mô hình chiến lược hỗn hợp. Mô hình chiến lược hỗn hợp là sự kết hợp những yếu tố cơ bản của mô hình chiến lược hướng về xuất khẩu và mô hình chiến lược thay thế nhập khẩu. Vì vậy, mô hình chiến lược này còn được gọi là mô hình chiến lược trung hòa. Tư tưởng cơ bản của mô hình chiến lược này là “đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của đất nước, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước có khả năng sản xuất hiệu quả”. Theo đó, coi trọng thị trường quốc tế và thị trường nội địa trên cơ sở đảm bảo hiệu quả kinh tế.

Việc áp dụng mô hình chiến lược này là phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam và xu thế phát triển kinh tế thế giới. Những lợi thế so sánh của Việt Nam là: tài nguyên thiên nhiên đa dạng, trong đó một số loại có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao; nhân lực dồi dào và có khả năng tiếp thu nhanh kỹ thuật mới; điều kiện chính trị - xã hội ổn định; vị trí địa kinh tế thuận lợi. Với số dân gần 90 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng cho hàng tiêu dùng và hàng sản xuất.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí