thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2015”; Hoạt động giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính đối với các doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu và doanh nghiệp có vốn Nhà nước tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với niên độ tài chính 2014”; Hoạt động quản lý và sử dụng Qũy bảo vệ môi trường Việt Nam giai đoạn 2012- 2015”; 02 cuộc kiểm toán do Đại sứ quán Canada đề xuất là “Dự án phát triển nông nghiệp tỉnh Hà Tĩnh năm 2014”, Dự án phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Sóc Trăng năm 2014”; 02 cuộc kiểm toán do KTNN khu vực III và khu vực IV thực hiện là Chương trình NOXH của thành phố Đà Nẵng”, Chương trình nhà ở xã hội của thành phố Hồ Chí Minh”. (3) Năm 2016, KTNN đã thực hiện 19 cuộc KTHĐ mở rộng tại các tỉnh thành trên toàn quốc. Thời điểm này, KTNN chưa thực hiện tăng số cuộc KTHĐ so với năm trước. (4) Năm 2017, KTNN tiếp tục thực hiện 19 cuộc KTHĐ độc lập mở rộng tại các tỉnh thành trên toàn quốc. (5) Năm 2018, KTNN tiếp tục thực hiện 20 cuộc KTHĐ độc lập. Giai đoạn này, KTNN đã thực hiện nâng cao vai trò với việc tăng dần các cuộc KTHĐ nhằm giám sát, kiểm soát tốt hơn quá trình hoạt động của các chương trình, chính sách, dự án đầu tư phát triển gắn với hiệu lực, hiệu quả và hiệu năng QLTC công. Tuy nhiên, (6) năm 2019, KTNN chỉ thực hiện 15 cuộc KTHĐ độc lập mở rộng tại các tỉnh thành trên toàn quốc, giảm 5 cuộc so với năm 2018 (20 cuộc) do thực hiện chủ trương của KTNN về cắt giảm đơn vị đầu mối kiểm toán, giảm số lượng, nâng cao chất lượng HĐKT. Điều đó đã làm giảm số lượng cuộc KTHĐ, chưa đáp ứng được mục tiêu đề ra tại Đại hội ASOSAI 14 (Theo Báo cáo kiểm toán 2014-2019 và Phụ lục số 01).
Để đạt được mục tiêu KTHĐ kỳ vọng cao nhất thì rủi ro kiểm toán (AR) phải được kiểm soát thấp nhất và cho phép tối đa kỳ vọng không vượt (%) quy định. Tức là giá trị vốn đầu tư và tài chính công ban đầu được hình thành tính toán trên cơ sở trị số sai phạm (b), với % quy định của KTNN tại Quyết định Số 1793/QĐ-KTNN ngày 04/11/2015, có tỷ lệ sai phạm thấp nhất với mục tiêu kỳ vọng ở mức tối đa 2% (AR ≤ 2%) giá trị được kiểm toán. X là giá trị báo cáo quyết toán để KTHĐ, Y là giá trị QLTC công cuối cùng, công bố trước công chúng được hình thành theo công thức y = x – b như sau:
Y(2016) ≥ x - 2%*x. Ta có b = 2%*x = 1.558.025.939 đồng và b(2016)/x ≤ 2% => X(2016) ≥ 77.901.296.950 đồng. Vậy giá trị đích thực tài chính công phân bổ và sử dụng vốn đầu tư được công bố Y(2016) ≥ x – b ≥ 76.343.271.011 đồng.
Tương tự, năm 2017, 2018, 2019 có giá trị X(2016+1), X(2016+2), X(2016+3) và
Y(2016+1), Y(2016+2), Y(2016+3) là giá trị vốn đầu tư và nguồn lực công (tài chính công) tối thiểu được mang đi đầu tư, phân bổ chi tiêu đầu tư cho các chương trình, dự án. Giá trị tài chính công cuối cùng (y) hình thành nên tài sản công ban đầu để đưa vào khai thác, quản lý và sử dụng. Tác giả luận án tổng hợp kết quả sau khi phát hành báo cáo KTHĐ được công bố tại bảng sau:
87
Bảng 3.4: Giá trị tài chính công giai đoạn 2014 - 2019 được báo cáo KTHĐ
Đơn vị tính: Đồng
Số cuộc KTHĐ mở rộng | Vốn đầu tư công KTHĐ công bố (y) | Vốn đầu tư công được KTHĐ (x) với sai sót ≤ 2% | Vốn đầu tư công KTHĐ kiến nghị (b) | Tổng kiến nghị KTHĐ | Tổng kiến nghị kiểm toán tài chính, TSC (B) | Tỷ lệ (%) | |
(1) | (2) | (3) | (4) | (5) | (6) | (7) | (6)/(7) |
2014 | 2 | ∞ | ∞ | 0 | 0 | 23.130.504.712.287 | 0,00% |
2015 | 7 | ∞ | ∞ | 0 | 0 | 19.863.476.046.428 | 0,00% |
2016 | 19 | 76.343.271.011 | 77.901.296.950 | 1.558.025.939 | 10.215.640.475 | 38.775.912.479.285 | 0,03% |
2017 | 19 | 5.477.336.499.460 | 5.589.118.877.000 | 111.782.377.540 | 561.326.610.636 | 91.322.710.630.274 | 0,61% |
2018 | 20 | 6.850.739.066.640 | 6.990.550.068.000 | 139.811.001.360 | 2.513.314.430.094 | 92.499.528.246.395 | 2,72% |
2019 | 15 | 23.406.230.065.155 | 23.883.908.229.750 | 477.678.164.595 | 823.629.393.290 | 81.095.642.516.194 | 1,02% |
Có thể bạn quan tâm!
- Mô Hình (Thuộc Tính) Quan Hệ Giữa Các Nhân Tố Trong Vai Trò Ktnn
- Mô Hình Định Hướng Kthđ Nâng Cao Vai Trò Ktnn Trong Qltc, Tài Sản Công
- Tổng Hợp Kết Quả Khảo Sát, Điều Tra Đối Tượng 1 Và 2
- Giá Trị Đầu Tư Chương Trình Nhà Ở Xã Hội Và Y Tế Hình Thành Tài Sản Công
- Thực Hiện Vai Trò Của Kiểm Toán Nhà Nước Trong Quản Lý Tài Chính, Tài Sản Công Qua Kiểm Toán Hoạt Động
- Vận Dụng Mô Hình Nghiên Cứu Nâng Cao Vai Trò Kiểm Toán Nhà Nước Trong Quản Lý Tài Chính, Tài Sản Công Qua Kiểm Toán Hoạt Động
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Nguồn: Báo cáo kiểm toán giai đoạn 2014 - 2019
Năm 2014 là năm đầu thực hiện thí điểm các cuộc KTHĐ trọng điểm, chưa có kết quả xử lý tài chính. Năm 2016, 2017, 2018, 2019 KTNN mở rộng đối tượng, quy mô KTHĐ hơn, kết quả xử lý kiến nghị sai phạm trong QLTC công qua KTHĐ càng khác biệt rõ rệt nhất so với kết quả xử lý trong kiểm toán tuân thủ và kiểm toán tài chính ở chỗ: Năm 2014, 2015 không có kết quả xử lý kiến nghị KTHĐ sai phạm đối với QLTC công nên tỷ lệ đạt 0%. Đến năm 2016, KTNN thực hiện 19 cuộc KTHĐ, kết quả xử lý kiến nghị KTHĐ sai phạm trong QLTC công với 10 tỷ đồng, đạt 0,03% tổng kiến nghị xử lý sai phạm trong quản lý và sử dụng tài chính công toàn ngành.
Năm 2017, KTNN cũng thực hiện 19 cuộc KTHĐ, kết quả kiến nghị xử lý tài chính KTHĐ với số tiền 561,3 tỷ đồng, đạt 0,61% tổng kiến nghị xử lý về kiểm toán tài chính, tài sản công toàn ngành, tăng 5.395% so với năm 2016. Tuy không tăng số cuộc KTHĐ so với năm 2016 nhưng kiến nghị xử lý tài chính tăng đáng kể, nguyên nhân ngành thực hiện các cuộc KTHĐ ngân sách cấp huyện, thành phố vì ngân sách cấp này phản ánh toàn diện bức tranh về QLTC, tài sản công của một cấp ngân sách, vì vậy vai trò KTNN càng thể hiện rõ hơn việc kiểm soát tổng thể các hoạt động thu, chi ngân sách.
Năm 2018, KTNN thực hiện 20 cuộc KTHĐ, kết quả kiến nghị xử lý tài chính KTHĐ với số tiền 2.513,3 tỷ đồng, đạt 2,72% tổng kiến nghị xử lý về kiểm toán tài chính, tài sản công toàn ngành, tăng 347% so với năm 2017, tăng 24.502% so với năm 2016. Thời điểm này số cuộc KTHĐ chỉ tăng 01 so với năm 2017 nhưng kiến nghị xử lý tài chính tăng đột biến. Nguyên nhân toàn ngành tăng cường thực hiện các cuộc KTHĐ chương trình, dự án “Việc thực hiện giải pháp giảm sử dụng túi ni lông thông thường của Thành phố Hồ Chí Minh theo đề án của Chính phủ”, “Hoạt động đầu tư xây dựng, việc thực hiện các mục tiêu xây dựng và phát triển Khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh” và “Chương trình nhà ở xã hội của giai đoạn 2015-2017 tỉnh Đồng Nai; quận Hà Đông, Cầu Giấy, Bắc Từ Liêm - Hà Nội” với phương pháp và tiêu chí kiểm toán được xây dựng khá chặt chẽ, KTV dần thích ứng với loại hình KTHĐ, năng lực kiểm toán cũng được nâng cao là điều kiện thuận lợi cho đoàn KTHĐ tập trung vào kiểm toán các chương trình, dự án hiệu quả hơn kiểm toán toàn diện ngân sách một cấp.
Năm 2019, KTNN cũng thực hiện 15 cuộc KTHĐ, kết quả kiến nghị xử lý tài chính KTHĐ với số tiền 823,63 tỷ đồng, đạt 1,02% tổng kiến nghị xử lý về kiểm toán tài chính, tài sản công toàn ngành, giảm 67% so với năm 2018, tăng 47% so với năm 2017, tăng 7.962% so với năm 2016. Nguyên nhân toàn ngành thực hiện giảm 05 cuộc KTHĐ so với năm 2018 (20 cuộc), kiến nghị xử lý tài chính tăng so với năm 2017 với một số cuộc KTHĐ “Hoạt động xây dựng và quản lý, sử dụng vốn đầu tư dự án phát triển bền vững thành phố Đà Nẵng” và “Chương trình nhà ở xã hội giai đoạn 2015-2018 Quận
Thanh Trì, Long Biên, Đông Anh TP Hà Nội”. Như vậy, năm 2019 và năm 2018 vai trò KTNN đã thể hiện rõ hơn, kiểm soát toàn diện về quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công, tập trung vào kiểm toán các chương trình, dự án trọng điểm, trong đó dự án phát triển nhà ở xã hội ngày càng được quan tâm và kết quả kiểm toán thể hiện rõ hơn.
Kết quả sau tham chiếu tới Bảng 3.4 cho thấy, giá trị vốn đầu tư năm 2014, 2015 có số kiến nghị xử lý tài chính bằng không, tức là b = 0. Tuy nhiên khó có thể áp dụng phương thức tính toán theo tỷ lệ % (AR) quy định của KTNN và giá trị vốn đầu tư công sẽ tiến tới ∞. Qua kết quả KTHĐ toàn ngành, Tác giả luận án lựa chọn hai chương trình nhà ở xã hội và chương trình y tế để tổng hợp số liệu, đánh giá, phân tích tại bảng sau (Theo Phụ lục số 01):
Bảng 3.5: Giá trị tài chính công KTHĐ chương trình nhà ở xã hội và y tế giai đoạn 2014 – 2019
Tên cuộc KTHĐ | Giá trị quyết toán vốn đầu tư (Tỷ đồng) | |||
Y | X (AR ≤ 2%) | b | ||
TT | Cộng | 12.737 | 12.948 | 211 |
2014 | Chương trình Nhà ở xã hội và Y tế Tp. Hà Nội. | ∞ | ∞ | 0 |
2015 | Chương trình Nhà ở xã hội Tp. Hồ Chí Minh và Tp. Đà Nẵng. | ∞ | ∞ | 0 |
2018 | Chương trình Nhà ở xã hội giai đoạn 2015-2017 của tỉnh Đồng Nai; quận Hà Đông, Cầu Giấy, Bắc Từ Liêm, Tp. Hà Nội. | 4.745 | 4.793 | 48 |
2019 | Chương trình Nhà ở xã hội giai đoạn 2015-2018, Quận Thanh Trì, Long Biên, Đông Anh, Tp. Hà Nội. | 7.993 | 8.156 | 163 |
Nguồn: Báo cáo kiểm toán giai đoạn 2014 - 2019
Kết quả trên cho thấy, tiến trình quản lý và sử dụng tài chính công qua thực hiện KTHĐ đã bộc lộ nhiều sai phạm đối với:
Thứ nhất: Chính sách y tế về hoạt động cấp phép, quản lý và sử dụng thuốc, thiết bị y tế tại các cơ sở y tế. Qua kết quả thực hiện vai trò KTNN trong tổ chức KTHĐ đã có những cảnh báo trong QLNN về quy trình cấp phép hoạt động cho các cơ sở khám chữa bệnh chưa chặt chẽ, thiếu thủ tục, thiếu sự kiểm tra, thanh tra và kiểm soát của các cơ
quan Nhà nước, các cơ sở khám chữa bệnh đều vi phạm trong hoạt động. Sự phối hợp của các cơ quan Nhà nước chưa chặt chẽ trong quản lý hoạt động chuyên môn, dẫn đến thất thoát vốn, quỹ công trong QLTC các nguồn lực công, các cơ sở khám chữa bệnh đều hướng vào mục đích lợi nhuận, chiếm dụng thuế làm thất thu quỹ công,… Cụ thể: Thiếu cơ chế phối hợp giữa Sở Y tế Hà Nội và các phòng Y tế quận, huyện, thị xã nên hoạt động thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo và chưa bao quát được hoạt động của các cơ sở khám, chữa bệnh; kết quả kiểm tra của một số Phòng y tế quận, huyện còn chưa phát hiện được hành vi vi phạm của các cơ sở khám chữa bệnh để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kịp thời; một số hồ sơ thanh, kiểm tra của Sở y tế Hà Nội và Phòng Y tế quận, huyện, thị xã chưa lưu trữ đầy đủ bằng chứng về vi phạm và xử lý vi phạm; Uỷ ban Nhân dân các phường không có chức năng kiểm tra, kiểm soát các cơ sở khám chữa bệnh, thực tế đã thực hiện nhiều lượt kiểm tra nhưng hiệu quả thấp; trình độ cán bộ y tế của các phường, xã, thị trấn trên địa bàn Hà Nội còn hạn chế (Báo cáo kiểm toán năm 2014, tr.9).
Kết quả trên cho thấy, bước đầu chủ thể thực hiện cuộc KTHĐ đã thể hiện được vai trò của báo cáo KTHĐ là đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý và sử dụng nguồn lực công để đầu tư, mua sắm thuốc, vật tư, thiết bị y tế chưa đảm bảo mục tiêu, ảnh hưởng đến chất lượng cung ứng dịch vụ y tế trong khám, chữa bệnh cho người và tạo nguồn thu, tái đầu tư trong tương lai. Tuy nhiên, chương trình phát triển y tế trên địa bàn thành phố Hà Nội chỉ được KTNN tổ chức KTHĐ một năm đầu (2014) thí điểm mà không tiếp tục tổ chức kiểm toán liên tục, lập kỳ cho các năm tiếp theo (2014+n). Nguyên nhân chính do KTNN đã tập trung vào các chương trình, dự án khác có nhiều lĩnh vực rủi ro cao và đang gây bức xúc trong công chúng. Vì vậy, ảnh hưởng lớn đến vai trò giám sát, kiểm soát hoạt động QLNN về y tế trên các tỉnh thành cả nước ngoài thành phố Hà Nội.
Thứ hai: Chương trình nhà ở xã hội giai đoạn 2014-2019
(i) Vai trò KTNN trong kiểm soát hoạt động xây dựng và quản lý nhà ở xã hội tại thành phố Hà Nội giai đoạn 2014-2015, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng năm 2015 đã chỉ ra những tồn tại của chương trình chưa đạt được hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng, tuy kết quả kiến nghị sai phạm về xử lý tài chính bằng không nhưng đã chỉ ra sai phạm trong quản lý: (1) Kết quả thực hiện tỷ lệ phát triển nhà ở xã hội đạt thấp: TP. Hồ Chí Minh 22% và TP. Đà Nẵng 43%; (2) Dự án chậm tiến độ thi công gây lãng phí, thiệt hại nguồn lực tài chính công dẫn đến không đảm bảo tính kinh tế cho mục tiêu KTHĐ; dự án đi vào hoạt động ô nhiễm môi sinh, bất ổn dân cư, không dảm bảo tính hiệu quả cho mục tiêu KTHĐ; quản lý thiếu chặt chẽ, gây trục lợi, lợi ích nhóm, thiệt hại nguồn lực
đầu tư, làm ảnh hưởng đến an ninh tài chính, cạnh tranh phát triển và an sinh xã hội không đảm bảo tính hiệu lực cho mục tiêu KTHĐ, cụ thể: TP. Hồ Chí Minh: 16,7% căn hộ được kiểm tra sử dụng không đúng mục đích, đối tượng đối với 05 chung cư thuộc sở hữu Nhà nước; TP. Đà Nẵng: 35,5% số căn hộ được chọn mẫu KTHĐ xác minh hiện đang sử dụng không đúng mục đích, đối tượng (Báo cáo kiểm toán 2015, tr.52). Với vai trò KTNN đã chỉ ra các sai phạm, đánh giá rủi ro trong kiểm soát hoạt động giúp các nhà quản lý chấn chỉnh kịp thời và báo cáo Quốc hội, Chính phủ định hướng chỉ đạo, điều hành chính sách nhà ở xã hội trên các địa bàn, địa phương khác.
(ii) Kết quả KTHĐ năm 2018 đối với Chương trình nhà ở xã hội tỉnh Đồng Nai và một số quận thuộc thành phố Hà Nội giai đoạn 2015-2017 cho thấy, giá trị vốn đầu tư ban đầu tối thiểu 4.793 tỷ đồng (x2015) để hình thành nên tài sản công ban đầu với tổng trị giá tối thiểu 4.745 tỷ đồng (y2017) là hệ thống nhà ở xã hội chuyển giao sang năm 2018, đưa vào sử dụng, quản lý và sinh lợi, tuy nhiên trong quản lý vẫn còn tình trạng sử dụng nguồn lực tài chính công đầu tư kém hiệu quả dẫn đến sai sót, thất thoát tối thiểu 48 tỷ đồng vốn (b2017), điển hình: (1) Đồng Nai, KTNN loại trừ 35,65 tỷ đồng quản lý chi phí đầu tư xây dựng không hiệu quả; (2) Hà Nội (quận Hà Đông, Cầu Giấy, Bắc Từ Liêm (Dự án Nhà ở để bán, văn phòng cho thuê kết hợp dịch vụ thương mại tại phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm)), KTNN xác định tính thiếu thuế GTGT và TNDN vào NSNN, giảm giá trị quyết toán dự án khi xác định giá bán chính thức và giảm giá bán chi phí thấp nhất trong đầu tư,... (Báo cáo kiểm toán 2018, tr.42). Thời điểm này, KTNN đã thể hiện vai trò rõ hơn so với các năm trước là đưa ra được kết quả kiến nghị xử lý tài chính ngoài những kiến nghị về quản lý điều hành, vai trò KTNN đã mang lại giá trị lợi ích đích thực cho công chúng. Kết quả trên làm nổi bật lên vai trò, trách nhiệm để xẩy ra thất thoát nguồn lực công ở các cấp quản lý, là hồi chuông cảnh tỉnh trong quản lý và giám sát thi công, xây dựng nâng cao chất lượng công trình, mang lại dịch vụ công ích, giúp người dân tiếp cận và hưởng lợi từ chính sách của Nhà nước.
(iii) Kết quả KTHĐ năm 2019, Chương trình nhà ở xã hội Quận Long Biên, huyện Thanh Trì, Đông Anh, Hà Nội giai đoạn 2015-2018 cho thấy, giá trị vốn đầu tư ban đầu tối thiểu 8.156 tỷ đồng (x2015) để hình thành nên tài sản công ban đầu tối thiểu 7.993 tỷ đồng (y2018) là hệ thống nhà ở xã hội chuyển giao sang năm 2019, đưa vào sử dụng, quản lý và sinh lợi, tuy nhiên trong quản lý vẫn còn tình trạng sử dụng nguồn lực tài chính công đầu tư kém hiệu quả dẫn đến sai sót, thất thoát 163 tỷ đồng (b2018) vốn (tăng 239% so với năm 2018), điển hình các dự án: Dự án ký hiệu N03B, NOXH cho
cán bộ công chức có thu nhập thấp của Bộ Tài chính tại khu đất có ký hiệu N05 thuộc quỹ đất 20% dự án xây dựng khu đô thị mới Tứ Hiệp, huyện Thanh Trì, Đông Anh của TP. Hà Nội và dự án Gia Quất; Dự án khu nhà ở xã hội tại ô đất B8.NOXH phường Phúc Đồng, Long Biên, 9,94 tỷ đồng đầu tư lãng phí, thất thoát; Dự án khu nhà ở Gia Quất 4,14 tỷ đồng kém hiệu quả; Dự án NOXH 5B2 Đông Hội, Đông Anh 6,65 tỷ đồng gây lãng phí chi phí đầu vào; Dự án khu nhà ở Gia Quất tại lô đất A1-5/NO1, phường Thượng Thanh, quận Long Biên 13,1 tỷ đồng vốn thất thoát; DA đầu tư xây dựng khu NOXH 5B2 tại lô đất ký hiệu 5.B2, 5.B4, 5.B5 thuộc khu đất tái định cư Đông Hội, Đông Anh 16,2 tỷ đồng; dự án CT2A Thạch Bàn 1,7 tỷ đồng; Dự án NOXH tại lô đất B8.NXH thuộc quy hoạch chi tiết khu công viên công nghệ phần mềm Hà Nội 103,9 tỷ đồng; Dự án xây dựng NOXH để bán cho thuê tại ô đất N04 và một phần ô đất N03 (ký hiệu N03B) 20,9 tỷ đồng; Dự án tại ô đất N05 là 7,2 tỷ đồng....; Dự án khu NOXH tại ô đất B8.NXH tương ứng chi phí xây dựng 17,64 tỷ đồng thuộc quy hoạch chi tiết khu công viên công nghệ phần mềm Hà Nội, tỷ lệ 1/500 tại phường Phúc Đồng, quận Long Biên,... (Báo cáo kiểm toán 2019, tr.52).
Kết quả KTHĐ trên cho thấy, năm 2019 KTNN mới thực hiện kiểm toán chương trình, vai trò KTNN chưa thể hiện cao trong kiểm tra, kiểm soát kịp thời, hiệu quả việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư để xẩy ra nhiều sai phạm tiềm ẩn ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu KTHĐ như: (1) Dự án chậm tiến độ thi công gây thất thoát nguồn lực tài chính công, lãng phí chi phí đầu vào, không đảm bảo mục tiêu đánh giá tính kinh tế trong ngắn hạn (năm đầu tiên o); (2) dự án khi đi vào hoạt động không đáp ứng được mong mỏi của người dân, gây ảnh hưởng đến môi sinh công cộng và bất ổn dân cư dẫn đến tính hiệu quả không cao cho mục tiêu KTHĐ; (3) dự án được quản lý thiếu chặt chẽ, giảm thu thuế, quỹ công ích, đầu tư kém hiệu quả, thiếu công bằng về chính sách, ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài (những năm o+n về sau) và toàn diện của chương trình, chính sách mà Quốc hội và Chính phủ đặt ra, ngoài ra còn làm hạn chế trong việc tham mưu, ban hành các văn bản điều chỉnh quy hoạch, chiến lược phát triển trung và dài hạn đối với các dự án khác đang và sẽ đầu tư, hoạt động trong tương lai, dẫn đến không đảm bảo tính hiệu lực, hiệu năng cho mục tiêu KTHĐ. Kết quả trên giúp cho các cấp QLNN và công chúng đánh giá, giám sát chương trình khi quyết định đầu tư qua kênh thông tin báo cáo KTHĐ công khai, minh bạch mang lại giá trị lợi ích đích thực góp phần làm nâng cao vai trò KTNN.
Theo Báo cáo kiểm toán toàn ngành, đối với dự án xe điện Cát Linh - Hà Đông, Khi KTNN thực hiện tiền kiểm giai đoạn đầu vào, hiện kiểm đầu ra sẽ đưa ra các kiến nghị, tham vấn kịp thời để hiệu chỉnh không làm tăng tổng mức đầu tư của năm đầu
phê duyệt từ 8.000 tỷ đồng (Xo) lên 18.000 tỷ đồng (Xo+n), thời gian kéo dài thi công từ 4 năm lên hơn 10 năm (o+10) như kết quả hậu kiểm công bố năm 2018. Hiện nay, KTNN chỉ kiểm toán tài chính các công ty cấp thoát nước mà không KTHĐ lĩnh vực bảo vệ môi trường tài nguyên, nguồn lợi nước; đối với siêu dự án sân bay Long Thành cần được tiến hành tiền kiểm giá trị dự toán (Xo), kế hoạch, quy hoạch, đấu thầu lựa chọn nhà thầu; các dự án đường cao tốc,... KTNN chỉ tổ chức hiện kiểm giai đoạn giải phóng mặt bằng, đấu thầu và thi công mà chưa thực hiện phương thức tiền kiểm giai đoạn (năm thứ nhất o) phê duyệt chủ trương, quy hoạch, hoạch định vốn, chi phí, tài chính công tiền khả thi và khả thi. Vì vậy, thực hiện kiểm toán liên tục, KTNN sẽ tham vấn kịp thời cho Quốc hội, Chính phủ về yếu tố khả thi, tiền khả thi và việc quyết định lựa chọn tổng thầu xây dựng, quyết định phê duyệt chủ trương hay không; trong quá trình thi công, xây dựng, KTNN tham vấn chủ đầu tư, tổng thầu xây dựng ngăn chặn những sai sót, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát trong suốt quá trình hình thành dự án.
3.2.1.3 Kết quả kiểm toán hoạt động đối với việc quản lý và sử dụng tài sản công
Luật Quản lý và sử dụng tài sản công Số 15/2017/QH14, ngày 21/06/2017 đã quy định 07 nhóm tài sản công như sau: [1] Tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị (Phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công,...); [2] Tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng là các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công trình kết cấu hạ tầng xã hội và vùng đất, vùng nước, vùng biển gắn với công trình kết cấu hạ tầng;
[3] Tài sản công tại doanh nghiệp; [4] Tài sản của dự án sử dụng vốn nhà nước; [5] Tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; [6] Tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách và dự trữ ngoại hối nhà nước; [7] Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, kho số viễn thông và kho số khác phục vụ quản lý nhà nước, tài nguyên Internet, phổ tần số vô tuyến điện, quỹ đạo vệ tinh và các tài nguyên khác do Nhà nước quản lý theo quy định của pháp luật. Trong 07 nhóm tài sản công này, có tài sản công thuộc nhóm 2 và nhóm 7 như: Nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời; công trình kết cấu hạ tầng xã hội là vùng nước, vùng biển,... thì KTNN hiện nay vẫn chưa có kết quả thực hiện kiểm toán.
Các nhóm tài sản công được hình thành từ các chương trình, dự án được lựa chọn KTHĐ thể hiện tại Phụ lục số 01 như: Chính sách y tế về hoạt động cấp phép, quản lý và sử dụng thuốc, thiết bị y tế tại các cơ sở y tế, đây là loại tài sản công thuộc nhóm [1] “Tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp dịch vụ công,...)” mang lại dịch vụ công ích xã hội, người dân được hưởng lợi từ chương trình này, tài sản công cũng được hình thành dưới dạng quỹ, lợi nhuận tạo lập, thuế quan từ việc quản lý, sử dụng và khai thác dịch vụ y tế sau một quá trình hoạch định tài chính