Kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật - 2


một vài kiến nghị”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Phạm Duy Nghĩa (2003), “Độc quyền hành chính: Góp phần nhận diện và tiếp cận từ pháp Luật cạnh tranh”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Đặng Vũ Huân (2002), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mang nặng tính chất chính sách và định hướng xây dựng khung cơ chế mà chưa có bước triển khai cụ thể.

Cho đến khi Luật cạnh tranh chính thức ra đời năm 2004, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền, về các hành vi lạm dụng vị trí độc quyền và các ảnh hưởng của nó đến kinh tế - xã hội như: Nguyễn Ngọc Sơn (2006), “Luật cạnh tranh: Sứ mệnh và triển vọng”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Ngọc Sơn (2006), “Xác định thị trường liên quan theo Luật cạnh tranh 2004”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Phan Thị Vân Hồng (2005), Độc quyền và pháp luật về kiểm soát độc quyền ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Đào Ngọc Báu (2004), “Vấn đề độc quyền ở Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Lê Nết, Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Luật cạnh tranh và những vấn đề về hợp đồng, phân phối, tài trợ trong thương mại”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận giải các quy định của Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh... Đánh giá một cách khách quan, tình hình nghiên cứu về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nói chung chưa có nhiều và chưa mang tính chuyên sâu. Nội dung nghiên cứu mới chỉ xem xét, nghiên cứu ở một vài khía cạnh như: nhận diện vị trí; nhận diện hành vi lạm dụng, độc quyền; phân loại các hành vi lạm dụng; đánh giá bộ máy thực thi luật cạnh tranh; nghiên cứu về pháp luật kiểm soát đối với hành vi lạm dụng... nhưng thiên về nghiên cứu độc quyền nhiều hơn. Chưa có một công trình nghiên cứu nào đi từ quan niệm kiểm soát để phân tích đặc điểm và bản chất của cơ chế; và để soi chiếu vào những quy định về vấn đề này trong pháp luật cạnh tranh hiện hành, tìm ra những bất cập,


nguyên nhân và định hướng hoàn thiện. Xuất phát từ ý nghĩa và tình hình nghiên cứu của đề tài, tác giả mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của bất cập trong các quy định của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, đưa ra định hướng và giải pháp toàn diện để hoàn thiện cơ chế này, phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế của nước ta.

Pháp luật tuy có tính lạc hậu hơn so với sự phát triển của nền kinh tế nhưng nếu pháp luật không phản ánh đúng quy luật phát triển, nhà nước không thể tạo ra một hành lang pháp lý tin cậy cho các doanh nghiệp thì sự phát triển của kinh tế trong thời đại mở sẽ kéo theo nó vô số những tranh chấp kinh tế, thương mại và những hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể trong kinh doanh gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nước ta, dựa trên những chủ trương, đường lối và chính sách xây dựng kinh tế - xã hội hội nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện. Luận văn đặt mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Nêu thực trạng bối cảnh kinh tế

- xã hội Việt Nam và đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh hiện hành trong việc kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này. Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:

- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến vị trí thống lĩnh thị trường, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

- Đưa ra quan niệm về pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, đặc điểm và vai trò của cơ chế;

- Nêu kinh nghiệm quốc tế trong kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường;

Kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật - 2


- Nêu bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam, tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam và nhận thức xã hội về Luật cạnh tranh và kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường;

- Đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường;

- Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

4. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu

Về phương pháp. Nhằm hoàn thành các nhiệm vụ đã đặt ra, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: phương pháp tổng hợp và phân tích; phương pháp so sánh và đối chiếu; kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của phương pháp luận duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cơ sở quan điểm đường lối về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Về phạm vi. Để đảm bảo cho luận văn có phạm vi nghiên cứu hợp lý, đáp ứng mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý trong kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam. Trong luận văn, tác giả cũng đề cập đến bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam, nhận thức của xã hội về Luật cạnh tranh và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong thực tiễn chỉ với mục đích đơn thuần nhằm làm rõ thêm thực trạng pháp luật của Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.

5. Những đóng góp của luận văn

Những đóng góp của luận văn gồm có:

Một là, về lý luận: Luận văn đóng góp trong nghiên cứu có hệ thống các khái niệm về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; quan niệm chung, đặc điểm và vai trò của pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.


Nêu và phân tích kinh nghiệm một số nước để chúng ta tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về vấn đề này.

Hai là, về thực tiễn: Nêu ra thực trạng bối cảnh kinh tế - xã hội, tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam và nhận thức của xã hội về Luật cạn tranh và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Hơn hết, luận văn chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân hạn chế còn tồn tại trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.

Ba là, về định hướng hoàn thiện: Luận văn đã nêu lên một số giải pháp cụ thể dựa trên những định hướng được căn cứ vào các quan điểm, đường lối của Đảng và nhà nước; của các nguyên tắc và quy luật thị trường; và những đòi hỏi từ thực tiễn kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1 - Một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát hành vi lạm dụng cuả doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường

Chương 2 – Thực trạng kiểm soát hành vi lạm dụng cuả doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam

Chương 3 – Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường


Chương 1 – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG‌‌

1.1. Các khái niệm

1.1.1. Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường

Các nhà khoa học trên thế giới đều thừa nhận rằng cạnh tranh là một quy luật vận động khách quan của kinh tế thị trường. Bởi trong nền kinh tế đó, các chủ thể phải vận động theo quy luật thị trường và cạnh tranh lẫn nhau để tồn tại và khẳng định vị thế. Xét trên lộ trình của sự phát triển, cạnh tranh sẽ là nguyên nhân sự ra đi của các doanh nghiệp yếu thế, nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Vì vậy có thể nói cạnh tranh lành mạnh là động lực thúc đẩy cuộc sống xã hội đi lên và góp phần tạo ra các giá trị đích thực. Mặc dù vậy, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng cạnh tranh cũng có xu hướng dẫn tới sự lạm dụng của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Lợi nhuận sẽ thúc đẩy các chủ thể này thực hiện các hành vi nhằm tích tụ tối đa tư bản; hoặc duy trì và củng cố vị trí của mình. Vì lẽ đó, để bảo vệ cấu trúc thị trường và xây dựng nền kinh tế lành mạnh, hiệu quả, cần thiết phải có sự kiểm soát các hành vi lạm dụng của các chủ thể có vị trí thống lĩnh trên thị trường.

Để kiểm soát được một quan hệ nào đó thì trước hết phải nhận diện được khách thể và các thuộc tính của nó. Xuất phát từ quan niệm này, pháp luật cần phải đưa ra các quy tắc chung để nhận dạng đâu là doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Tuy nhiên, do sự tập trung tư bản ở các lĩnh vực và đặc điểm kinh tế - xã hội trên các vùng lãnh thổ khác nhau nên pháp luật các nước đưa ra khái niệm nhận dạng vị trí thống lĩnh thị trường cũng không giống nhau.

Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh 2004 là đạo luật trực tiếp điều chỉnh các hành vi cạnh tranh và kiểm soát cạnh tranh chung, nhưng không đưa ra một khái niệm cụ thể thế nào là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, mà chỉ nhận dạng thông qua phương pháp định lượng (tức là xác định qua thị phần của chúng


trên thị trường liên quan – 30% thị phần trở lên đối với một doanh nghiệp, 50% thị phần trở lên đối với hai doanh nghiệp, 65% thị phần trở lên đối với ba doanh nghiệp và 75% thị phần trở lên đối với bốn doanh nghiệp) và phương pháp định tính (“có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể”) [47, Điều 11].

Với cách tiếp cận định lượng, vị trí thống lĩnh thị trường có thể thuộc về người mua hoặc người bán trong thương mại hàng hóa và cung ứng dịch vụ; vị trí thống lĩnh thị trường có thể do một doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp có thị phần lớn nắm giữ. Nhưng khi quy định tỷ lệ thị phần chiếm lĩnh thị trường liên quan để xác định vị trí thống lĩnh thị trường được đóng khung như trong Luật cạnh tranh của Việt Nam là không phù hợp. Bởi lẽ, tỷ lệ phần trăm không biểu thị được bản chất của vị thế, có nhiều doanh nghiệp mức chiếm lĩnh ít hơn so với quy định nhưng trong thực tế các doanh nghiệp này có tầm ảnh hưởng rất lớn và có tác động không nhỏ đến thị trường liên quan. Hơn nữa, do đặc thù của từng lĩnh vực ngành nghề thì mức độ thống lĩnh thị trường là khác nhau, nếu lấy tỷ lệ định lượng chung làm thước đo và quy kết hành vi cũng là không bình đẳng. Còn với phương pháp xác định định tính “khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể” được quy định rất trìu tượng và rất khó áp dụng cũng như không đem lại được hiệu quả trong thực tiễn.

Ở một số nước khác lại có cách tiếp cận khác so với pháp luật cạnh tranh về vấn đề này, trong đó điển hình là Luật thương mại lành mạnh và những quy định về độc quyền 1980 của Hàn Quốc (“gọi tắt là Luật Thương mại Hàn Quốc”).

Theo khoản 7, Điều 2 của Luật:

Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường là bất kỳ người mua, người bán trong một lĩnh vực thương mại nhất định và nắm giữ vai trò thống lĩnh thị trường để ấn định, duy trì hoặc thay đổi giá cả, khối lượng, chất lượng và các điều kiện thương mại khác hoặc trên cơ sở độc lập hoặc trên cơ sở câu kết với các doanh nghiệp khác. Khi xét đoán các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, cần phải tính đến các yếu


tố như thị phần, sự tồn tại và quy mô của các rào cản đối với việc thâm nhập thị trường và các quy mô tương đối của các doanh nghiệp cạnh tranh.

Với quy phạm này, Luật Thương mại Hàn Quốc đã đảm bảo xây dựng một khái niệm mang tính lý luận tổng quát, miêu tả đầy đủ và ngắn gọn các đặc tính của đối tượng; và hoàn thiện hơn so với cách nhận diện vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp trong Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam. Khái niệm đã chỉ ra rằng vị trí thống lĩnh thị trường không chỉ được xem xét dưới góc độ vị trí của một doanh nghiệp mà có thể là vị trí của một nhóm doanh nghiệp cùng hành động (tập trung kinh tế để đạt được vị trí thống lĩnh thị trường). Các doanh nghiệp này có khả năng kiểm soát thực tế hoặc tiềm năng đối với thị trường liên quan mà doanh nghiệp đó đang hoặc sẽ hoạt động. Và việc xem xét vị trí thống lĩnh thị trường sẽ căn cứ trên nhiều tiêu chí thị phần, quy mô rào cản mà khả năng thực tế của doanh nghiệp trên thị trường.

Trong phạm vi luận văn này, tác giả thừa nhận khái niệm “vị trí thống lĩnh thị trường” của Luật Thương mại Hàn Quốc là cách hiểu chung khi sử dụng cụm từ này trong quá trình nghiên cứu và phân tích. Để làm rõ và bao quát hơn khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường, tác giả nhìn nhận vị trí độc quyền như là một dạng đặc thù của vị trí thống lĩnh thị trường. Với mong muốn ngày càng bành trướng thế lực, các doanh nghiệp sau khi đạt được vị trí thống lĩnh thị trường, với ưu thế của mình sẽ cố gắng và từng bước loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh để đến với đỉnh cao nhất trong cạnh tranh theo quy luật kinh tế thị trường là độc quyền (tức là doanh nghiệp không còn đối thủ cạnh tranh hoặc có sự cạnh tranh nhưng rất yếu ớt và không đáng kể; khác với vị trí thống lĩnh thị trường là trên thị trường vẫn còn sự cạnh tranh của các đổi thủ yếu hơn). Và xét theo quá trình cạnh tranh, vị trí thống lĩnh thị trường là hình thái trước khi đến biểu hiện của cạnh tranh không hoàn hảo – độc quyền.


1.1.2. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

Hiện nay trên thế giới, khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được tiếp cận theo hai cách. Cách thứ nhất là liệt kê các hành vi được coi là lạm dụng thông qua các dấu hiệu của hành vi. Cách thứ hai là đưa ra định nghĩa về hành vi này, tùy thuộc từng trường hợp và cách giải quyết của cơ quan quản lý cạnh tranh mà hành vi đó có được coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hay không.

Pháp luật cạnh tranh Việt Nam, Pháp luật thương mại Pháp, Luật cạnh tranh của Canada… là đại diện điển hình cho cách tiếp cận đầu tiên. Pháp luật cạnh tranh Việt Nam liệt kê 06 nhóm hành vi được coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (gồm nhóm ấn định giá, nhóm hạn chế, cản trở cạnh tranh) [47, Điều 13]. Theo đó, chỉ những hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường được liệt kê tại điều 13 và điều 14 cuả Luật cạnh tranh mới được coi là lạm dụng và bị xử lý. Luật cạnh tranh Canada cũng không đưa ra khái niệm chung mà liệt kê 11 hành vi bị coi là vi phạm pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (ngoài ra còn cho phép cơ quan có thẩm quyền xử lý những hành vi chưa được pháp luật liệt kê nhưng thỏa mãn ba dấu hiệu xác định hành vi lạm dụng theo điều 79 là: (i) Một hoặc một nhóm doanh nghiệp kiểm soát thị trường liên quan ; (ii) thực hiện hành vi phản cạnh tranh được quy định trong luật cạnh tranh ; (iii) hành vi đó đã, đang hoặc có thể làm cản trở, làm giảm cạnh tranh trên thị trường một cách đáng kể) [17]. Điều L. 420-2 Bộ Luật thương mại Pháp nhận diện: "Sự lạm dụng bao gồm hành vi từ chối bán, các điều kiện áp đặt giá bán hoặc phân biệt đối xử cũng như sự phá vỡ các mối quan hệ thương mại đã được thiết lập chỉ trên cơ sở mà bên đối tác từ chối thực hiện đối với các điều kiện thương mại không công bằng" [24].

Tổ chức hợp tác và phát triển Liên hợp quốc (OECD) thì định nghĩa hành vi này theo cách thứ hai: "Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/12/2023