được khuếch đại, làm xuất hiện một tầng lớp rất đặc trưng là các nhà tư bản tài chính, ngày càng lớn lên cả về số lượng, chất lượng và sự giàu có. Các định chế tài chính, các quỹ tài chính cũng vì thế mà xuất hiện một cách vô chính phủ. Không một cơ quan nhà nước, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài chính nào có đủ thông tin và khả năng để đánh giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản nằm trên sổ sách của các tổ chức tài chính – ngân hàng này. Sai lầm của Chính phủ Mỹ bắt đầu từ việc để thị trường tự do quá tầm kiểm soát của mình, hệ thống giám sát tài chính tỏ ra lỏng lẻo, bất lực và có quy mô quá hạn chế.
Bên cạnh đó, năm 2001, sau khi khủng hoảng bong bóng công nghệ (năm 2000) và cuộc tấn công khủng bố 11/9 (năm 2001), Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục hạ thấp và duy trì lãi suất trong một thời gian dài để giúp nền kinh tế khỏi trì trệ. Vào giữa năm 2000, lãi suất cơ bản của Fed là trên 6%, nhưng sau đó lãi suất này liên tục bị cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì còn 1% và giữ ở mức đó cho đến tháng 6/2004 [20]. Chính sự kết hợp của lãi suất thấp cùng với tình trạng thừa thanh khoản trên thị trường và sự giám sát lỏng lẻo của Chính phủ đã tạo ra sự bùng nổ trong lĩnh vực vay tín dụng trên thị trường bất động sản Mỹ năm 2008.
Thứ hai, đó là sự phát triển của thị trường tài chính dẫn đến sự hình thành "siêu bong bóng" trong lĩnh vực tài chính và bất dộng sản. Có hai nguyên nhân hình thành nên bong bóng trên thị trường tài chính và bất động sản: đó là giá bất động sản tăng quá nhanh và sự ra đời của nghiệp vụ chứng khoán hóa.
Giá bất động sản tăng quá nhanh
Từ lâu nay, đa số người Mỹ vay tiền từ các ngân hàng để mua nhà, và đến thời hạn hợp đồng từ 10 đến 30 năm sẽ phải trả cả lãi lẫn vốn. Chính vì vậy, có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tình hình lãi suất với thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người dân đổ xô mua nhà, đẩy giá nhà lên cao; khi lãi suất cao thì giá nhà xuống thấp. Do đó quyết định hạ lãi suất xuống còn 1% của Fed vào năm 2001 đã khiến thị trường bất động sản của Mỹ bùng nổ. Lãi suất giảm dẫn đến việc các ngân hàng cũng hạ lãi suất cho vay tiền mua bất động sản và tiền vay rẻ đã sinh ra bong bóng địa ốc. Nhu
cầu nhà ở lên cao đỉnh điểm trong những năm 2001 – 2005. Giá nhà bình quân tăng đến 54% chỉ trong vòng 4 năm. Cùng giai đoạn này, theo thống kê, giá thị trường của những căn nhà có sẵn đã tăng hơn 50%. Năm 2005, 40% nhà mua vào không phải để làm nơi ở thường xuyên mà để đầu tư hoặc làm căn thứ hai; ước tính khoảng một nửa tăng trưởng GDP của Mỹ có dính líu đến nhà cửa cho dù là trực tiếp hay gián tiếp. Theo Martin Feldstein - cựu chủ tịch của Hội đồng Cố vấn Kinh tế - ước tính rằng từ năm 1997 tới năm 2006, người tiêu dùng đã rút ra hơn 9 ngàn tỉ đôla từ giá trị chủ sở hữu của họ trong nhà mua thế chấp. Một nghiên cứu khác do Cục Dữ trữ Liên bang tiến hành vào năm 2005, đã chỉ ra rằng suốt những năm 2000, tiền rút ra từ giá trị trong nhà mua thế chấp đã tài trợ cho 3% tiêu dùng cá nhân; và vào quý đầu 2006, tiền rút ra từ giá trị trong nhà thế chấp đã đóng góp gần 10% cho thu nhập khả dụng của cá nhân [6, tr21]
Giá nhà tăng cao đã sinh ra đầu cơ, và theo giáo sư kinh tế học N.Gregory Mankiw: "Vấn đề cơ bản mà hệ thống tài chính Mỹ gặp phải là có rất nhiều người tin chắc rằng giá địa ốc không thể nào rớt đến 20% được". Hệ quả là người dân Mỹ sẵn sàng mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này, vì họ nghĩ rằng nếu cần sẽ bán lại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Có quá nhiều người kỳ vọng giống nhau nhưng lại phải đối mặt với tình hình thực tế trái ngược, khiến cho hệ thống tài chính sụt giảm nhanh chóng chỉ trong một thời gian ngắn. Đây chính là nguyên nhân đầu tiên làm thành hình một bong bóng trong thị trường bất động sản.
Sự ra đời của chứng khoán hóa dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn
Một số khái niệm cơ bản:
Chứng khoán hóa (Securitisation) ra đời năm 1977 tại Mỹ song thực sự phát triển mạnh từ thập kỷ 90; là quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng các tài sản có sẵn trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho việc phát hành các loại chứng khoán nợ. Có thể nói, chứng khoán hóa là quá trình phát hành chứng khoán nợ trên cơ sở đảm bảo bởi các dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ một nhóm tài sản tài chính sẵn có [19]. Các tài sản tài chính có thể dùng để chứng khoán hóa rất đa dạng bao gồm các khoản cho vay thế chấp mua nhà, các khoản cho vay thương mại, các khoản phải thu thương mại,
Có thể bạn quan tâm!
- Khủng hoảng tài chính Mỹ và những tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam - 1
- Khủng hoảng tài chính Mỹ và những tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt Nam - 2
- Tác Động Của Khủng Hoảng Tài Chính Mỹ Đến Nền Kinh Tế Thế Giới
- Ảnh Hưởng Của Khủng Hoảng Tài Chính Mỹ Đến Nền Kinh Tế Việt Nam
- Ảnh Hưởng Của Khủng Hoảng Tài Chính Mỹ Đến Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu Việt Nam
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
danh mục các khoản cho vay thẻ tín dụng, danh mục nợ dưới chuẩn, các trái phiếu hạng đầu cơ hay các khoản cho vay bất động sản thương mại. Chứng khoán hóa được đặt niềm tin là sẽ giúp giảm rủi ro thông qua phân hạng rủi ro và đa dạng hóa trên cơ sở vị trí địa lý. Nhưng trên thực tế biện pháp này lại làm gia tăng rủi ro do chúng đã chuyển quyền sở hữu của những khoản vay thế chấp từ những ngân hàng biết rõ khách hàng của mình sang những nhà đầu tư không rõ nguồn gốc.
Nợ dưới chuẩn (Subprime) là các khoản cho vay với các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Theo cẩm nang hướng dẫn của Bộ tài chính Mỹ năm 2001, những đối tượng đi thuộc nhóm nợ dưới chuẩn thường là người nghèo, không có công ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có quá khứ tín dụng yếu kém như thường có những khoản thanh toán quá hạn, và có thể có những vấn đề nghiêm trọng như phải ra tòa, phá sản. Những đối tượng này cũng có thể có khả năng thanh toán thấp xét trên những chỉ số như điểm tín dụng, tỷ lệ nợ trên thu nhập hoặc một số tiêu chí khác…[19]. Do đó họ rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống chỉ dành cho những đối tượng trên chuẩn. Không có một tài liệu chính xác nào quy định cụ thể về người đi vay dưới chuẩn nhưng ở Mỹ hầu hết những người vay này có điểm tín dụng thấp hơn 620, chiếm gần 25% dân số Mỹ. Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất rất hấp dẫn. Như đã đề cập ở trên, kể từ khi lãi suất cơ bản được điều chỉnh xuống rất thấp, các điều kiện cho vay để mua nhà ngày càng được nới lỏng, chính sách chung của chính phủ Mỹ lúc bấy giờ là khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo và các nhóm dân da màu, dân nhập cư vào Mỹ được vay tiền để mua nhà. Đây chính là nhóm người thuộc vào thành phần được cho vay với loại lãi suất dưới chuẩn.
Khủng hoảng nợ dưới chuẩn bắt nguồn từ sự bất cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu. Trong khi nguồn vốn tín dụng gia tăng từ các chính sách tiền tệ mở thì nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp sau các bê bối tài chính Mỹ và khủng hoảng các công ty công nghệ thông tin từ năm 2001 lại suy giảm. Các chính phủ cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay nguồn vốn bên ngoài. Sự bất cân đối cung cầu về vốn dẫn đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường không sử dụng hiệu quả.
Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp hữu hiệu để giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Quá trình chứng khoán hóa:
Chứng khoán hóa tồn tại dưới hai dạng: OTH (Orginate to hold) và OTD (Orginate to Distribute). Về nguyên tắc, các ngân hàng sẽ thực hiện cho vay bất động sản theo phương thức OTH. Theo đó, các khoản sau khi cho người dân vay sẽ được giữ nguyên tại ngân hàng theo sơ đồ khép kín sau:
Hình 1.2: Mô hình chứng khoán hóa OTH
Người đi vay mua nhà
Ngân hàng
(2)
(1)
(1): Khoản tiền mà người vay đi mua nhà phải hoàn trả lại cho ngân hàng (cả gốc lẫn lãi)
(2): Tài sản thế chấp do người đi vay thế chấp cho ngân hàng
Với mô hình OTH, chỉ có 2 đối tượng tham gia trong công cụ tài chính này. Tuy nhiên, những người đi vay mua nhà trong mô hình OTH cần phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn cho vay (có khả năng tín dụng cao và có khả năng trả nợ). Tiêu chuẩn khắt khe cộng với lãi suất cho vay thấp đồng nghĩa với khả năng sinh lời thấp. Những người cho vay dần nới lỏng các tiêu chuẩn, sáng chế ra nhiều phương cách mới để kích thích kinh doanh và khuyến khích cả những người không đủ khả năng tài chính cũng đi vay tiền để mua nhà. Đó là các đối tượng thuộc nhóm "nợ dưới chuẩn". Mô hình OTH chuyển thành mô hình OTD.
Hình 1.3: Mô hình chứng khoán hóa OTD
Ngân hàng
Người đi vay mua nhà
(2)
(1)
(3) (4)
Công ty trung gian
Nhà đầu tư
(1): Khoản tiền mà người vay đi mua nhà phải hoàn trả lại cho ngân hàng (cả gốc lẫn lãi).
(2): Tài sản thế chấp do người đi vay thế chấp cho ngân hàng
(3): Các ngân hàng bán lại các khoản vay cho các công ty trung gian
(4): Các công ty trung gian đóng gói các khoản vay, chứng khoán hóa chúng, tạo thành các MBS và bán lại cho các nhà đầu tư.
Fannie Mae và Freddie Mac – hai công ty được sự bảo trợ của chính phủ đã đóng vai trò là các công ty đặc biệt trong quá trình này. Bằng cách mua lại các khoản vay của Ngân hàng thương mại, biến chúng thành các khoản cho vay thế chấp rồi bán lại cho các nhà đầu tư phố Wall; hai công ty này đã giúp đổ vốn vào thị trường bất động sản. Các loại chứng từ này được gọi là Mortgage backed securities – MBS (tạm gọi là các trái phiếu) – một sản phẩm tài chính phái sinh được bảo đảm bằng các hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp. Trái phiếu được phân ra thành nhiều gói được định mức tín nhiệm khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và cuống lãi suất khác nhau, ví dụ gói A, gói B … gói Z. Những gói được xếp hạng cao nhất (chiếm đến 80% các trái phiếu) có các nguồn tiền chảy vào khá chắc chắn nên được bán với mức xếp hạng AAA. Những trái phiếu được xếp hạng thấp hơn là trái phiếu phải chịu rủi ro trước nếu có gì xảy ra nhưng phân lời lại cao hơn. Như vậy, các nhà đầu tư có rất nhiều sự lựa chọn gói trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa tùy theo sở thích rủi ro của mình. Vấn đề ở đây là, các khoản nợ của cá nhân khác nhau sẽ có mức độ rủi ro khác nhau. Nhưng sau khi đóng thành một gói, mức độ rủi ro lại được tính bằng nhau; tức là trong một gói cho vay, có những khoản nợ
đạt chuẩn và có cả những khoản nợ dưới chuẩn. Các tổ chức đánh giá tín nhiệm đánh giá cao các gói đầu tư hạng AAA nhưng lại không ngờ đến độ rủi ro tiềm ẩn do những khoản vay dưới chuẩn do gói đó mang lại. Niềm tin lan ra toàn thị trường, trở thành động lực kích thích nhu cầu mua các loại trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa và làm bùng nổ cho vay dưới chuẩn.
Bắt đầu từ năm 2005, chứng khoán hóa đã trở nên thông dụng. Các chứng khoán đầy rủi ro vì thế có thể được nhân lên nhiều lần, vượt xa khỏi mức cung thực tế trên thị trường. Nếu như cho vay thế chấp dưới chuẩn mới bắt đầu hình thành từ những năm đầu 90, và phát triển rất chậm thì trong 5 năm gần đây, con số này gia tăng một cách kỷ lục. Năm 2002, doanh số cho vay dưới chuẩn cung cấp cho thị trường khoảng 200 tỷ USD, năm 2003 là 320 tỷ USD, năm 2004 là 550 tỷ, năm 2005 – 2006 con số này là 700 tỷ USD hàng năm, chiếm khoảng 25% thị phần cho vay thế chấp mua nhà toàn nước Mỹ [19].
Không chỉ giới hạn trong lĩnh vực vay thế chấp địa ốc, chứng khoán hóa còn lan sang cả các hình thức tín dụng khác. Sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS đã kéo các công ty bảo hiểm và thẩm định rủi ro vào cuộc. Trên thị trường xuất hiện một công cụ tài chính mới là Credit Default Swap (CDS) – hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi hay còn gọi là hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng. Công cụ tài chính này được phát minh tại Châu Âu vào những năm 1990. Những CDS đầu tiên là những hợp đồng thỏa thuận lập riêng giữa các ngân hàng. Theo đó, ngân hàng A (bên mua sự bảo vệ), đồng ý trả một khoản phí hàng năm trong một giai đoạn cụ thể (thường là 3 đến 4 năm) cho ngân hàng B (bên bán sự bảo vệ) cho một danh mục các khoản nợ chuyên biệt. Ngân hàng B sẽ cam kết bù lại những mất mát mà ngân hàng A phải chịu nếu trên danh mục nợ có những vụ vỡ nợ trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng. Cũng với mục đích tương tự như vậy, các CDS xuất hiện trong giai đoạn này do các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm quốc tế bán ra cho các nhà đầu tư mua MBS, theo đó bên mua CDS được bên bán bảo đảm sẽ hoàn trả đầy đủ số nợ cho vay nếu bên vay không trả được nợ. Cho tới thời điểm năm 2006, thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu nổ bong bóng, nhu cầu mua MBS của các nhà
đầu tư là rất cao, cùng với niềm tin vào một thị trường không thể xuống dốc, có rất ít các vụ đổ vỡ tín dụng, nên các nhà bảo hiểm cho rằng việc tung những CDS ra thị trường là rất khôn ngoan nhằm thu được lợi nhuận tối đa. Theo ước tính của Hiệp hội International Swap and Derivatives Association – Hiệp hội hoán đổi chứng khoán phái sinh, trong thời gian này, trên toàn thế giới, tổng giá trị của các hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi CDS khoảng 54.600 tỷ USD CDS và 12.000 tỷ USD với trái phiếu phái sinh MBS [15].
Sự mua đi bán lại các công cụ tài chính phát sinh (MBS và CDS), cũng như sự biến đổi của các khoản vay thành các công cụ đầu tư, thị trường tín dụng đã kéo theo quá nhiều các thành phần đầu tư vào cuộc, cả trong và ngoài nước. Mối quan hệ chằng chịt giữa người vay và nhiều thành phần cho vay trực tiếp cũng như gián tiếp đã khiến cả thị trường tài chính sụp đổ nhanh chóng hơn khi thị trường bất động sản tuột dốc vào năm 2006 – Cục Dữ trữ Liên Bang (Fed) bắt đầu tăng lãi suất cơ bản. Như đã trình bày ở trên, lãi suất của Fed liên tục giữ ở mức 1% trong một thời gian dài, tuy nhiên, do lo lắng về diễn biến lạm phát, lãi suất đã tăng lên 5,25% vào giữa năm 2006. Điều này bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà cao lên rất nhiều. Tình hình lãi suất cao ảnh hưởng trực tiếp đến cường độ vay để mua nhà. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vì cung vượt cầu. Những người mua nhà giá cao trước đây bắt đầu thấy giá thị trường của căn nhà thấp hơn khoản nợ mình đang vay. Những người trong nhóm vay tiền với lãi suất dưới chuẩn mất khả năng trả nợ khi lãi suất bị điều chỉnh theo lãi suất mới. Hậu quả là một số hợp đồng cho vay bất động sản dùng để đảm bảo cho các trái phiếu MBS là nợ khó đòi (khoảng 4.000 tỷ USD chiếm khoảng 30% - theo International Swap and Derivatives Association) [25]. Các trái phiếu MBS mất giá, thậm chí không mua bán được trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những trái phiếu này không những chịu khoản lỗ nặng nề mà còn mất khả năng thanh toán. Các tập đoàn tài chính Mỹ trong đó có cả các tập đoàn bảo hiểm chuyên kinh doanh CDS lần lượt thông báo các khoản lỗ khổng lồ liên tục trong nhiều tháng. Hàng loạt ngân hàng lớn nhỏ bị sụp đổ, sát nhập và quốc hữu hóa. Niềm tin của công chúng bị suy giảm kéo theo giá cổ phiếu của các tổ chức này sụt giảm mạnh, huy động vốn cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Sự suy thoái trên diện rộng, lây lan nhanh chóng qua các thị trường và các nền kinh tế khác đã gây ra khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008.
3. Diễn biến của khủng hoảng tài chính Mỹ
Bắt đầu từ tháng 8/2007, khi các ngân hàng trung ương phải can thiệp để cấp thanh khoản cho hệ thống ngân hàng chính là thời điểm bắt đầu dấu hiệu của khủng hoảng tài chính. Ngày 6/8/2007, American Home Mortgage, một trong những công ty cho vay thế chấp địa ốc độc lập lớn nhất Mỹ, đã tuyên bố phá sản với lý do trì trệ của thị trường bất động sản. Ngày 9/8/2007, các thị trường tín dụng ngắn hạn đóng băng sau khi BNP Paribas, một ngân hàng lớn của Pháp phong tỏa ba quỹ đầu tư trị giá 2 tỷ Euro do có những rắc rối trong khu vực cho vay thế chấp dưới chuẩn Mỹ, làm giá trị tài sản của các quỹ này không tính được nữa. Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã bơm 95 tỷ Euro vào hệ thống ngân hàng khu vực sử dụng đồng Euro để giảm bớt tình trạng cạn kiệt tín dụng gây ra bởi các khoản vay dưới chuẩn. Ngày 10/8 và 13/8/2007, Ngân hàng này đã cấp thêm 62 tỷ Euro cho các ngân hàng và 47,7 tỷ Euro vào thị trường tiền tệ [6, tr18-20]. Ngân hàng Trung ương ở các nước phát triển cũng có những bước đi tương tự. Ngày 17/8/2007, Cục Dự trữ liên bang Mỹ hạ tỉ suất chiết khấu từ 6,25% xuống 5,75% và tiếp tục hạ xuống còn 4,5% vào tháng 10/2007 để giúp các ngân hàng đối phó với những khó khăn tín dụng [20]. Tại Anh, Nothern Rock – ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc lớn nhất
- tuyên bố phá sản và phải quốc hữu hóa sau khi gặp vấn đề nghiêm trọng về khả năng thanh khoản liên quan đến các khoản vay dưới chuẩn. Tại Mỹ, Cục Dự trữ liên bang Fed và Bộ tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay tín dụng Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường tín dụng. Hàng loạt những nỗ lực của chính phủ Mỹ bao gồm việc cho phép các ngân hàng đầu tư được trực tiếp vay tiền từ Fed hay việc nới lỏng những hạn chế cho vay giữa công ty mẹ - con cũng không đủ giúp cho hệ thống tài chính vốn đã tê liệt sau một năm chống chọi với khủng hoảng nhà đất.
Khủng hoảng bắt đầu với những dấu hiệu khá rõ ràng cùng với những biến động trên thị trường tín dụng. Ngày 15/09/2008 được đánh dấu là ngày khủng hoảng chính thức bùng nổ, khi Lehman Brother – một trong bốn ngân hàng đầu tư lớn nhất Hoa Kỳ