khi hiệu ứng sau phụ thuộc vào vị thế tài sản ròng của người tiêu dùng. Thứ ba, trong trường hợp chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, những biến động lãi suất sẽ làm cho tỷ giá hối đoái biến động qua đó làm thay đổi lợi thế cạnh tranh về giá và tác động đến xuất khẩu ròng. Những biến động lãi suất cũng sẽ có tác động đến khía cạnh cung của nền kinh tế thông qua việc thay thế cung lao động giữa các quốc gia.
Lý thuyết kênh lãi suất giả định rằng các tổ chức trung gian tài chính không có bất kỳ vai trò đặc biệt nào trong nền kinh tế. Bernanke và Blinder (1988) chỉ ra rằng kênh lãi suất truyền thống dựa trên ít nhất một trong ba giả định: 1) các khoản vay và trái phiếu có thể thay thế hoàn toàn cho nhau đối với những người đi vay, 2) các khoản vay và trái phiếu có thể thay thế hoàn toàn cho nhau đối với những người cho vay, hoặc 3) nhu cầu về hàng hóa thì không nhạy cảm với lãi suất cho vay.
Khởi điểm của quan điểm tín dụng là việc bác bỏ giả định cho rằng trái phiếu và các khoản vay ngân hàng có thể thay thế hoàn toàn cho nhau. Bernanke và Gertler (1995) phát biểu rằng: “theo lý thuyết về kênh tín dụng, tác động trực tiếp của chính sách tiền tệ lên lãi suất được khuếch tán thông qua sự thay đổi trong phần thưởng nguồn vốn bên ngoài (external finance premium), phần thưởng nguồn vốn bên ngoài là sự chênh lệch về chi phí giữa nguồn vốn huy động từ bên ngoài (từ phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vay ngân hàng) và nguồn vốn huy động từ bên trong (từ thu nhập giữ lại). Mức độ chênh lệch này phản ánh sự không hoàn hảo của thị trường tín dụng (vấn đề chủ sở hữu và người đại diện; chi phí thẩm định, giám sát, thu hồi; vấn đề thông tin bất cân xứng, gây ra lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức), tạo ra mức chênh lệch giữa lợi nhuận kỳ vọng của người cho vay và chi phí của người đi vay. Theo quan điểm tín dụng, một sự thay đổi trong chính sách tiền tệ làm tăng hoặc giảm lãi suất thị trường, sẽ có xu hướng làm thay đổi phần thưởng nguồn vốn bên ngoài cùng chiều với nó”.
Dựa trên giả định về sự không hoàn hảo thông tin trong các thị trường tài chính, kênh tín dụng ấn định một vai trò tích cực trong việc cung cấp các khoản tín dụng ngân hàng. Do đó, kênh tín dụng quy định rằng chính sách tiền tệ không chỉ tác động
đến cầu tín dụng, mà còn có thể tác động đến cung tín dụng. Bernanke và Gertler (1995) định nghĩa hai “phân kênh” của kênh tín dụng:
- Kênh bảng cân đối (hay còn gọi là kênh tín dụng rộng – broad credit channel) với một sự tập trung vào tác động tiềm ẩn trên bảng cân đối và báo cáo thu nhập của người đi vay.
- Kênh cho vay ngân hàng (hay còn gọi là kênh tín dụng hẹp – narrow credit channel) với một sự tập trung vào việc cung cấp các khoản vay của các tổ chức tín dụng.
Kênh bảng cân đối không tập trung cụ thể vào tín dụng ngân hàng, mà thường quan tâm nhiều hơn đến các nguồn cung cấp vốn tổng thể. Kênh này có thể hoạt động ngay cả khi các khoản vay và trái phiếu có thể thay thế hoàn toàn cho nhau trong bảng cân đối của ngân hàng và doanh nghiệp. Kênh bảng cân đối được dựa trên giả định rằng phần thưởng nguồn vốn bên ngoài sẽ phụ thuộc vào tình hình tài chính của người đi vay.
Những thay đổi trong chính sách tiền tệ có thể tác động đến các đặc điểm rủi ro của người đi vay, vì mức lãi suất càng cao được dự kiến sẽ làm suy yếu vị thế tài chính của người đi vay. Theo Bernanke và Gertler (1995), một chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ trực tiếp làm suy yếu bảng cân đối của người đi vay theo hai cách. Thứ nhất, mức lãi suất càng cao sẽ làm tăng chi phí lãi vay, làm suy yếu vị thế tài chính của người đi vay. Thứ hai, việc tăng lãi suất thường gắn liền với việc giảm giá tài sản, điều này làm giảm giá trị tài sản thế chấp của người đi vay. Hơn nữa, một chính sách tiền tệ thắt chặt có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính của người đi vay (các doanh nghiệp) một cách gián tiếp, thông qua việc làm giảm nhu cầu về sản lượng của doanh nghiệp, trong khi các chi phí cố định khác không được điều chỉnh trong ngắn hạn. Một sự thay đổi trong rủi ro của người đi vay sẽ làm thay đổi đường cung của nguồn vốn do sự tồn tại của thông tin bất cân xứng giữa người cho vay và người đi vay.
Kênh cho vay ngân hàng tập trung kỹ hơn vào vai trò đặc biệt của các ngân hàng trong cơ chế truyền dẫn tiền tệ, do chính sách tiền tệ cũng có thể tác động đến phần
Có thể bạn quan tâm!
- Kênh cho vay ngân hàng và truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam - 1
- Các Biến Trong Mô Hình Và Mối Tương Quan Mong Đợi
- Các Ước Lượng Của Phương Trình (4.1) Sử Dụng Dữ Liệu Ngân Hàng (Tiếp Theo)
- Tác Động Kinh Tế Vĩ Mô Của Kênh Cho Vay Ngân Hàng
Xem toàn bộ 70 trang tài liệu này.
thưởng nguồn vốn bên ngoài bằng cách thay đổi cung tín dụng ngân hàng. Kênh này chỉ có thể hoạt động dưới các điều kiện sau đây:
- Chính sách tiền tệ phải có tác động đáng kể đến mức cung (hoặc lãi suất) tín dụng ngân hàng. Mô hình được thiết kế bởi Bernanke và Blinder (1988) cho thấy rằng một chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ tác động đến tình hình dự trữ của các ngân hàng, ảnh hưởng đến việc cung cấp các khoản tín dụng ngân hàng. Giả định then chốt là, sau một sự sụt giảm trong nguồn quỹ dự trữ, các ngân hàng không thể chuyển sang huy động vốn trên thị trường trái phiếu một cách rộng rãi do chênh lệch về chi phí giữa nguồn vốn huy động từ bên ngoài và nguồn vốn huy động từ bên trong (phần thưởng nguồn vốn bên ngoài). Nói cách khác, tiền gửi và trái phiếu không thể thay thế hoàn toàn cho nhau đối với các ngân hàng.
- Tín dụng ngân hàng và trái phiếu không thể thay thế hoàn toàn cho nhau đối với những người đi vay, và những thay đổi trong mức cung tín dụng phải tác động đến hoạt động thực trong nền kinh tế. Bernanke và Gertler (1995) cho rằng điều kiện này là rất hợp lý vì các ngân hàng vẫn là nguồn cung cấp tín dụng chủ đạo, chuyên khắc phục các vấn đề về thông tin và những rào cản khác trong thị trường tín dụng.
Không nên xem các kênh bảng cân đối và kênh cho vay ngân hàng là một sự thay thế cho cơ chế truyền dẫn tiền tệ truyền thống. Bernanke và Gertler (1995) nhấn mạnh rằng: “chúng tôi không nghĩ kênh tín dụng là một kênh riêng biệt, có thể thay thế cho cơ chế truyền dẫn tiền tệ truyền thống, mà nó là một tập hợp các yếu tố làm khuếch đại và truyền dẫn các tác động lãi suất thông thường. Vì lý do này, thuật ngữ “kênh tín dụng” thường dễ gây nhầm lẫn; kênh tín dụng là một cơ chế tăng cường, chứ không phải là một kênh truyền dẫn độc lập như kênh lãi suất”.
Ngoài ra, không giống như kênh lãi suất truyền thống, tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế thực thông qua các kênh bảng cân đối và kênh cho vay ngân hàng, có những kết quả mang tính phân phối quan trọng. Các ngân hàng với sự phụ thuộc vào tiền gửi khác nhau và các doanh nghiệp với tình hình tài chính và sự phụ
thuộc vào tín dụng ngân hàng khác nhau thì không hẳn sẽ bị tác động như nhau bởi các cú sốc chính sách tiền tệ.
2.1.2. Các yếu tố xác định kênh cho vay ngân hàng
Bernanke và Blinder (1988) lập luận rằng khi ngân hàng trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ bằng việc bán các chứng khoán trên thị trường mở sẽ làm dự trữ và tiền gửi của hệ thống các ngân hàng giảm xuống. Do việc phát hành các công cụ nợ và cổ phiếu để bù đắp lượng giảm xuống của tiền gửi là không hề dễ dàng nên khả năng cung ứng các khoản tín dụng của các ngân hàng giảm. Bernanke và Gertler (1995) cho rằng trong các nền kinh tế có thị trường chứng khoán kém phát triển thì các ngân hàng vẫn là nguồn cung cấp tín dụng chủ đạo, chuyên khắc phục các vấn đề về thông tin và những rào cản khác trong thị trường tín dụng, nên khi khả năng cấp tín dụng của các ngân hàng giảm sẽ khiến cho đầu tư và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế cũng giảm theo.
Từ những khái niệm mang tính lý thuyết, Benkovskis (2008) cho rằng kênh cho vay ngân hàng chỉ có thể hoạt động hiệu quả trong cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ khi có đủ hai điều kiện sau đây: thứ nhất, chính sách tiền tệ có khả năng tác động đến cung tín dụng ngân hàng (hay tiền gửi và trái phiếu không thể thay thế hoàn toàn cho nhau đối với các ngân hàng), và thứ hai, người đi vay phải phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng (hay tín dụng ngân hàng và trái phiếu không thể thay thế hoàn toàn cho nhau đối với những người đi vay). Do đó, tầm quan trọng của kênh cho vay ngân hàng được xác định bởi hai yếu tố: thứ nhất, mức độ tác động của chính sách tiền tệ đến cung tín dụng ngân hàng, và thứ hai, mức độ phụ thuộc của người đi vay vào tín dụng ngân hàng.
(i) Mức độ tác động của chính sách tiền tệ đến cung tín dụng ngân hàng:
- Sức mạnh tài chính của ngành ngân hàng:
Cecchetti (1999) cho rằng tác động của chính sách tiền tệ đến cung tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào sức mạnh tài chính của ngành ngân hàng. Nhìn chung, ngành ngân hàng của một quốc gia càng mạnh, thì tác động của các hành động chính sách
được dự đoán sẽ càng yếu; bảng cân đối của các ngân hàng lớn, lành mạnh thì không nhạy cảm với chính sách bởi vì sự sụt giảm trong nguồn quỹ dự phòng rủi ro của họ có thể dễ dàng được bù đắp bằng các nguồn tài chính thay thế khác, nên họ thường không quan tâm đến các yêu cầu về dự phòng rủi ro.
Có nhiều chỉ số khác nhau để đo lường sức mạnh tài chính của ngành ngân hàng trong các tài liệu nghiên cứu. Quy mô của ngân hàng, sự tập trung thị trường, vốn hóa, và tính thanh khoản là những yếu tố thường xuyên được đề cập đến (Cecchetti, 1999; Ehrmann và cộng sự, 2003). Một quy mô tương đối nhỏ của ngân hàng, sự tập trung thị trường ngân hàng yếu, tính thanh khoản và vốn hóa thấp sẽ đề xuất một kênh cho vay mạnh hơn, vì các ngân hàng như vậy tiếp xúc nhiều hơn với sự không hoàn hảo của thị trường và sẽ đối mặt với nhiều khó khăn hơn trong việc thu hút nguồn tài chính phi tiền gửi. Ngoài ra, sức mạnh tài chính của ngành ngân hàng còn được mô tả bởi các khoản dự phòng rủi ro tín dụng, chi phí vận hành và lợi nhuận trên tài sản cũng như số lượng ngân hàng phá sản trong quá khứ (Benkovskis, 2008).
- Cấu trúc sở hữu của ngành ngân hàng:
Một yếu tố quan trọng khác là cấu trúc sở hữu của ngành ngân hàng ở từng quốc gia. Ảnh hưởng của nhà nước đến ngành ngân hàng có thể trực tiếp thông qua hình thức sở hữu ngân hàng, sự kiểm soát của nhà nước, hoặc thông qua bảo lãnh công khai bằng cách cung cấp các nguồn tài trợ bổ sung trong khả năng cho phép và làm giảm sự bất cân xứng thông tin. Vì vậy, một quốc gia mà có sự tham gia khá sâu của nhà nước vào lĩnh vực ngân hàng sẽ làm suy yếu tầm quan trọng của kênh cho vay ngân hàng ở quốc gia đó (Benkovskis, 2008).
Sự tham gia của nước ngoài vào ngành ngân hàng trong nước cũng làm suy yếu kênh cho vay ngân hàng, vì các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể ít gặp “hạn chế tài chính” hơn do được ngân hàng mẹ cung cấp các nguồn tài trợ bổ sung khi cần thiết (De Haas và Naaborg, 2005; Ehrmann và cộng sự, 2003).
- Khuôn khổ pháp lý:
Kashyap và Stein (1993) lập luận rằng tác động của chính sách tiền tệ đến cung tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào khuôn khổ pháp lý, vì các tiêu chuẩn vốn trên cơ
sở rủi ro có thể hạn chế khả năng của một ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng dựa trên mức độ vốn chủ sở hữu và hạn mức cho vay của ngân hàng đó. Mặt khác, hành vi cho vay của ngân hàng cũng có thể bị tác động bởi các yêu cầu về bảo hiểm tiền gửi, vì mức bảo hiểm tiền gửi cao sẽ làm giảm mức độ rủi ro cho các khách hàng. Mức độ rủi ro càng thấp thì sẽ làm giảm chi phí huy động tiền gửi cho các ngân hàng, do đó làm tăng sự phụ thuộc của ngân hàng vào các loại tiêu sản (nợ phải trả) này.
- Kỳ hạn tín dụng ngân hàng và loại lãi suất ngân hàng:
Benkovskis (2008) cho rằng tốc độ truyền dẫn tiền tệ phụ thuộc vào kỳ hạn tín dụng ngân hàng và loại lãi suất ngân hàng. Thị phần tín dụng ngắn hạn với lãi suất thả nổi càng lớn, thì phản ứng của cung tín dụng đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ sẽ càng nhanh vì các khoản tín dụng này khá nhạy cảm đối với những thay đổi trong lãi suất chính sách.
(ii) Mức độ phụ thuộc của người đi vay vào tín dụng ngân hàng:
- Tình hình tài chính của người đi vay:
Sự phụ thuộc của người đi vay vào tín dụng ngân hàng, thường được giải thích bởi một thực tế là các ngân hàng đóng một vai trò đặc biệt trong hệ thống tài chính bởi vì chúng rất thích hợp để giải quyết vấn đề thông tin bất cân xứng trong các thị trường tín dụng (Mishkin, 1996). Những người đi vay có tình hình tài chính yếu, chẳng hạn như các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hộ gia đình, hầu như bị các vấn đề thông tin bất cân xứng nên mức độ phụ thuộc ngân hàng của các đối tượng này khá cao. Thị phần của những người đi vay như thế trong thị trường tín dụng càng cao, thì tỷ lệ phụ thuộc ngân hàng càng cao và kênh cho vay ngân hàng hoạt động càng hiệu quả (Benkovskis, 2008).
- Tính khả dụng của các nguồn tài chính phi ngân hàng:
Sự phụ thuộc ngân hàng cũng bị ảnh hưởng bởi tính khả dụng của các nguồn tài chính phi ngân hàng. Một quốc gia có thị trường chứng khoán kém phát triển, mức vốn hóa thị trường vốn tương đối thấp so với tài sản và tín dụng ngân hàng cho thấy sự phụ thuộc ngân hàng cao hơn và kênh cho vay ngân hàng mạnh hơn trong truyền dẫn tiền tệ (Benkovskis, 2008).
2.2. Bằng chứng thực nghiệm về kênh cho vay ngân hàng
Chủ đề về kênh cho vay ngân hàng đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu trong suốt hơn 20 năm qua. Các nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên tập trung vào bằng chứng kinh tế vĩ mô, vì có lẽ hàm ý đơn giản nhất của kênh cho vay đó là tín dụng ngân hàng phải có mối tương quan chặt chẽ với các chỉ tiêu đại diện cho chính sách tiền tệ. Chẳng hạn như, Bernanke và Blinder (1988) đã tìm thấy rằng sự gia tăng trong lãi suất quỹ liên bang ở Mỹ thúc đẩy các ngân hàng hạ thấp tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, mặc dù mối tương quan giữa các chỉ số chính sách tiền tệ, tín dụng ngân hàng, và hoạt động kinh tế phù hợp với quan điểm về kênh cho vay ngân hàng, nhưng bằng chứng như vậy vẫn không thể cung cấp một sự hỗ trợ rõ ràng cho kênh cho vay. Kashyap và Stein (1993; 1995) lập luận rằng có một cách khác để lý giải cho các kết quả này, đó là chính sách tiền tệ thắt chặt có hiệu lực thông qua kênh lãi suất truyền thống, làm hạn chế các hoạt động kinh tế và làm giảm nhu cầu tín dụng. Do đó, có thể có một mối tương quan thuyết phục giữa hoạt động kinh tế và tín dụng ngân hàng ngay cả khi không có kênh cho vay.
Để khắc phục vấn đề nhận dạng này, việc sử dụng dữ liệu phân tách trên bảng cân đối ngân hàng đã được đề xuất. Nếu quan điểm về kênh cho vay là đúng, thì danh mục tín dụng của các ngân hàng có đặc điểm khác nhau sẽ phản ứng khác nhau đối với một sự thắt chặt trong chính sách tiền tệ (Kashyap và Stein, 1995, 2000). Theo lý thuyết về kênh cho vay, sự không hoàn hảo thông tin trong thị trường tài chính đã tạo ra các tác động của chính sách tiền tệ đến cung tín dụng ngân hàng, cũng như kết quả phản ứng của cung tín dụng khác nhau qua các ngân hàng. Giả định cơ bản là các ngân hàng càng gặp khó khăn hơn trong việc bù đắp tác động tiêu cực của chính sách tiền tệ thắt chặt, thì mức độ mà nó phải gánh chịu từ vấn đề thông tin bất cân xứng với những người cung cấp vốn cho nó càng cao. Kết quả là, việc sử dụng dữ liệu phân tách trên bảng cân đối ngân hàng đã trở thành một phương pháp chủ đạo trong các nghiên cứu thực nghiệm về sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng trong những năm gần đây.
Hai phương pháp thường được sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm để kiểm tra sự tồn tại của kênh cho vay bằng dữ liệu phân tách của các ngân hàng. Một là phân chia các ngân hàng theo các đặc điểm đặc trưng ngân hàng (ví dụ như Kashyap và Stein, 1995, 2000; Kishan và Opiela, 2000, 2006; Altunbas và cộng sự, 2002). Tuy nhiên, việc sử dụng dữ liệu phân tách trên bảng cân đối ngân hàng đòi hỏi cần phải có một số lượng lớn ngân hàng trong mẫu nghiên cứu. Điều này không có vấn đề đối với Mỹ và các quốc gia có thị trường tài chính phát triển mạnh, nhưng đối với các quốc gia có số lượng ngân hàng ít thì cách tiếp cận này là không khả thi. Do đó, Ehrmann và cộng sự (2003) đã đề xuất một phương pháp thay thế khác là sử dụng mô hình bảng, cho phép phản ứng của tín dụng ngân hàng đối với những thay đổi trong CSTT trở nên phụ thuộc vào các đặc điểm đặc trưng ngân hàng. Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến ở các quốc gia thuộc khu vực Châu Âu và Châu Á (ví dụ như Benkovskis, 2008; Matousek và Sarantis, 2009; Hosono, 2006; Gunji và Yuan, 2010).
Nhiều nhà nghiên cứu đã gợi ý vài đặc điểm đặc trưng ngân hàng để xác định các ngân hàng khác nhau nhạy cảm như thế nào đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ. Trong đó, các đặc điểm thường được sử dụng nhiều nhất trong các nghiên cứu thực nghiệm về kênh cho vay ngân hàng đó là quy mô, thanh khoản, và vốn hóa ngân hàng (Kashyap và Stein, 1995, 2000; Benkovskis, 2008; Matousek và Sarantis, 2009).
- Quy mô của ngân hàng: Kashyap và Stein (1995, 2000) và Kishan và Opiela (2000) cho rằng các ngân hàng nhỏ thì dễ gặp phải vấn đề bất cân xứng thông tin hơn các ngân hàng lớn. Điều này sẽ làm cho các ngân hàng nhỏ nhạy cảm hơn đối với các cú sốc chính sách tiền tệ, vì không giống như các ngân hàng lớn có thể dễ dàng gia tăng các nguồn vốn phi tiền gửi để đối phó với các cú sốc tiền tệ.
- Thanh khoản của ngân hàng: Bằng chứng được cung cấp bởi Kashyap và Stein (2000) và Ehrmann và cộng sự (2003) cho thấy rằng các ngân hàng kém thanh khoản thì nhạy cảm hơn đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ, vì các
ngân hàng thanh khoản cao có thể bảo vệ danh mục tín dụng của họ bằng cách giảm tài sản thanh khoản, trong khi các ngân hàng thanh khoản thấp thì không thể làm như vậy.
- Vốn hóa của ngân hàng: Peek và Rosengren (1995) và Kishan và Opiela (2000, 2006) lập luận rằng các ngân hàng có nguồn vốn yếu kém sẽ giảm mức cung tín dụng của họ nhiều hơn so với các ngân hàng có nguồn vốn tốt sau một sự thắt chặt tiền tệ, do khả năng hạn chế của họ trong việc tiếp cận với các nguồn vốn phi tiền gửi.
2.3. Các nghiên cứu trước đây về kênh cho vay ngân hàng
2.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Những bài nghiên cứu có ảnh hưởng sâu xa về sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ, sử dụng dữ liệu phân tách của các ngân hàng, đã được thực hiện tại Mỹ. Kashyap và Stein (1995) tìm thấy rằng sự tăng trưởng của tín dụng ngân hàng trong phân khúc các ngân hàng thương mại nhỏ phản ứng mạnh hơn với chính sách tiền tệ. Một nghiên cứu khác của Kashyap và Stein (2000) đã phân tách các ngân hàng không chỉ theo quy mô tài sản, mà còn theo tính thanh khoản. Bài nghiên cứu này đã cho thấy các ngân hàng càng nhỏ, càng kém thanh khoản thì càng phản ứng mạnh với chính sách tiền tệ. Dựa trên những kết quả này, các tác giả đã ủng hộ ý kiến cho rằng có sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Mỹ. Kishan và Opiela (2000) đã hỗ trợ các nghiên cứu trước bằng cách phân tách các ngân hàng cả về quy mô lẫn sức mạnh vốn. Kishan và Opiela (2006) nghiên cứu các tác động bất đối xứng của chính sách tiền tệ đến hành vi cho vay của các ngân hàng vốn thấp và các ngân hàng vốn cao, và các kết quả nghiên cứu này phù hợp với những dự đoán về kênh cho vay nhưng chỉ trong thời kỳ hậu Basel. Nhìn chung, các nghiên cứu về ngân hàng ở Mỹ cung cấp bằng chứng hỗ trợ cho kênh cho vay ngân hàng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ, mặc dù điều này gần đây đã bị nghi ngờ bởi Ashcraft (2006). Khi sử dụng dữ liệu ngân hàng, Ashcraft cũng nhận ra một phản ứng khác biệt của cung tín dụng đối với những thay đổi trong
lãi suất quỹ liên bang qua các ngân hàng. Tuy nhiên, khi tác giả tổng hợp dữ liệu ngân hàng lên cấp bang, thị phần thị trường tín dụng của các ngân hàng thành viên (chi nhánh và công ty con) có xu hướng làm giảm nhẹ phản ứng nghịch của tăng trưởng tín dụng bang đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ, trong khi độ co giãn tổng thể của sản lượng đối với cho vay ngân hàng là âm và không có ý nghĩa.
Cũng có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về kênh cho vay ngân hàng ở các quốc gia Châu Âu. Matousek và Sarantis (2009) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về kênh cho vay ngân hàng trong truyền dẫn tiền tệ ở 8 quốc gia CEE đã gia nhập liên minh Châu Âu: Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Latvia, Lithuania, Ba Lan, Cộng hòa Slovak và Slovenia. Bằng cách sử dụng dữ liệu bảng của một số lượng lớn ngân hàng trong giai đoạn 1994 – 2003, và các kỹ thuật ước lượng bảng động, tác giả đã tìm thấy bằng chứng về kênh cho vay ngân hàng ở tất cả các quốc gia, mặc dù độ mạnh của nó khác nhau qua các quốc gia. Quy mô và thanh khoản ngân hàng dường như đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phân biệt các phản ứng của ngân hàng đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ. Tác giả cũng nghiên cứu các tác động kinh tế vĩ mô của kênh cho vay ngân hàng và tìm thấy bằng chứng về mối liên hệ giữa cung tín dụng tổng thể đối với hoạt động kinh tế thực ở các quốc gia CEE. Tuy nhiên, nhìn chung các bằng chứng thực nghiệm ở Châu Âu thì ít thuyết phục hơn. Favero và cộng sự (1999) nghiên cứu sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng ở Đức, Pháp, Ý, và Tây Ban Nha trong suốt thời kỳ thắt chặt tiền tệ vào năm 1992. Họ không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào về kênh cho vay ngân hàng ở các quốc gia này. Nghiên cứu được trình bày bởi De Bondt (1999) phân tích sáu quốc gia Châu Âu. Các phân tích này cho thấy rằng kênh cho vay ngân hàng có tồn tại trong truyền dẫn tiền tệ ở Đức, Bỉ, và Hà Lan khi lãi suất ngắn hạn được sử dụng như là chỉ số đại diện cho chính sách tiền tệ. Không có bằng chứng hỗ trợ nào được tìm thấy ở Pháp, Ý, và Anh. Trong phần hai của bài nghiên cứu, lãi suất ngắn hạn được thay thế bởi chỉ số MCI (Monetary Condition Index, là chỉ số dùng để đo lường mức độ nới lỏng hay thắt chặt của chính sách tiền tệ), kênh cho vay ngân hàng có tồn tại trong truyền dẫn tiền tệ ở Pháp và Ý. Ehrmann và cộng sự (2003) nghiên cứu về kênh cho vay ngân
hàng bằng cách sử dụng dữ liệu vi mô và tổng hợp cho Đức, Pháp, Ý, và Tây Ban Nha. Các tác giả tìm thấy rằng các ngân hàng càng kém thanh khoản thì phản ứng càng mạnh đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ hơn các ngân hàng có thanh khoản cao, nhưng quy mô và vốn hóa ngân hàng nhìn chung thì không quan trọng. Altunbas và cộng sự (2002) cũng xem xét bằng chứng về kênh cho vay ngân hàng ở các quốc gia Châu Âu. Họ tìm thấy rằng qua hệ thống Liên minh Kinh tế và Tiền tệ (EMU), các ngân hàng vốn hóa thấp có xu hướng phản ứng mạnh hơn đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ, bất luận quy mô của nó.
Sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng trong truyền dẫn tiền tệ ở khu vực Châu Âu cũng được xác định bởi nhiều nghiên cứu trong phạm vi từng quốc gia riêng lẻ. Benkovskis (2008) đã tìm kiếm bằng chứng về kênh cho vay ngân hàng ở Latvia bằng cách ước lượng một hàm số tín dụng ngân hàng không chỉ tính đến chỉ số chính sách tiền tệ và các biến số kinh tế vĩ mô, mà còn tính đến các đặc điểm đặc trưng ngân hàng và những sự khác biệt trong phản ứng cho vay của ngân hàng đối với các động thái chính sách tiền tệ. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng một cú sốc tiền tệ trong nước có một tác động phân phối và các ngân hàng bị tác động là những ngân hàng nhỏ, sở hữu trong nước, và có thanh khoản hay vốn hóa thấp. Tuy nhiên, kênh cho vay ngân hàng bị giới hạn chỉ đối với cung tín dụng bằng đồng nội tệ, điều này làm giảm đáng kể tầm quan trọng của kênh này trong truyền dẫn tiền tệ ở Latvia. Pruteanu (2004) đã phát hiện ra sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng trong cơ chế truyền dẫn tiền tệ giai đoạn 1996 – 1998 ở Cộng hòa Séc, với vốn hóa chi phối sự tác động của chính sách tiền tệ đến tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, sự xuất hiện của tính thanh khoản cũng tạo ra sự khác biệt trong phản ứng của tín dụng ngân hàng đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ, nhưng chỉ đối với các ngân hàng có sự tham gia chủ yếu của nhà nước. Những phân tích thực nghiệm được tiến hành bởi Juks (2004) đã cung cấp bằng chứng ủng hộ kênh cho vay ngân hàng ở Estonia, và khả năng thanh khoản của các ngân hàng ở Estonia dường như là một yếu tố quyết định quan trọng của cung tín dụng. Hernando và Martínez-Pagés (2003) đã phát hiện một vài bằng chứng cho thấy các ngân hàng kém thanh khoản ở Tây Ban Nha có thể bộc lộ một sự phản ứng
mạnh hơn so với các ngân hàng có mức độ thanh khoản cao hơn, mặc dù bằng chứng này dường như được hỗ trợ chủ yếu bởi ảnh hưởng của một thành phần danh mục tín dụng. Loupias và cộng sự (2003) báo cáo về một số bất cân xứng giữa các ngân hàng thanh khoản cao và các ngân hàng kém thanh khoản ở Pháp. Kakes và Sturm (2002) tìm thấy rằng cho vay của các ngân hàng nhỏ ở Đức giảm nhiều hơn so với các ngân hàng lớn sau một sự thắt chặt tiền tệ. Gambacorta (2005) cũng tìm thấy bằng chứng tương tự cho các ngân hàng ở Ý liên quan đến vốn hóa và thanh khoản.
Gần đây, sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng cũng đã được kiểm tra ở các quốc gia Châu Á. Gunji và Yuan (2010) đã sử dụng dữ liệu ở cấp độ ngân hàng để nghiên cứu xem liệu tác động của chính sách tiền tệ đến cho vay ngân hàng có phụ thuộc vào các đặc điểm của ngân hàng Trung Quốc trong giai đoạn 1985 – 2007 hay không. Các tác giả đã tìm thấy rằng tác động của chính sách tiền tệ đến cho vay ngân hàng thì yếu hơn đối với các ngân hàng lớn và các ngân hàng có mức thanh khoản thấp, trong khi đó, vốn hóa ngân hàng dường như không có vai trò quan trọng trong việc phân biệt phản ứng của các ngân hàng đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ. Hosono (2006) kiểm tra sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng trong cơ chế truyền dẫn tiền tệ ở Nhật Bản bằng cách sử dụng dữ liệu bảng cân đối ngân hàng trong giai đoạn 1975 – 1999. Tác giả đã tìm thấy rằng tác động của chính sách tiền tệ đến cho vay ngân hàng thì mạnh hơn đối với các ngân hàng nhỏ, kém thanh khoản, và vốn hóa cao, điều này hàm ý về sự tồn tại của kênh cho vay ngân hàng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Nhật Bản.
2.3.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, chủ đề về truyền dẫn chính sách tiền tệ đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trong những năm gần đây. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu cung cấp một cái nhìn tổng quan về các con đường truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam nói chung, chứ chưa tập trung nghiên cứu chuyên sâu về kênh cho vay ngân hàng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ. Lê Việt Hùng và Wade Pfau (2008) đã đặt nền móng cho các nghiên cứu định lượng về truyền dẫn chính sách
tiền tệ tại Việt Nam. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình VAR rút gọn để nghiên cứu về các kênh truyền dẫn tại Việt Nam trong giai đoạn 1996 – 2005. Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy chính sách tiền tệ có tác động đến lạm phát và sản lượng, tuy nhiên, mức ý nghĩa thống kê của các kênh truyền dẫn thì rất yếu, chỉ có kênh tín dụng và kênh tỷ giá hối đoái là có ý nghĩa thống kê nhiều hơn.
Trần Ngọc Thơ (2013) đã nghiên cứu cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 1998 – 2012 bằng cách sử dụng mô hình SVAR. Các kênh truyền dẫn lãi suất, tín dụng, và tỷ giá hối đoái đã được phân tích để xác định độ lớn và thời gian chính sách tiền tệ truyền dẫn đến các biến mục tiêu. Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy lạm phát ở Việt Nam nhạy cảm nhiều hơn với kênh tỷ giá hối đoái so với các kênh còn lại (đặc biệt là giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO). Nguyễn Khắc Quốc Bảo và cộng sự (2013) sử dụng phương pháp mô hình vector hiệu chỉnh sai số (VECM) với các biến là giá dầu, lãi suất cơ bản Mỹ đại diện cho các cú sốc ngoại sinh, biến sản lượng công nghiệp, lạm phát, cung tiền, lãi suất, tỷ giá hối đoái danh nghĩa và giá chứng khoán đại diện cho nền kinh tế trong nước, để xem xét cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 1999 – 2012. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng mức độ truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua kênh lãi suất không có ảnh hưởng lớn đến sản lượng công nghiệp, lạm phát, và thị trường chứng khoán khi so với các kênh còn lại. Các tác giả cho rằng có hiện tượng trên có thể do sự truyền dẫn từ lãi suất chính sách đến lãi suất thị trường chưa hiệu quả, dẫn đến việc sử dụng lãi suất chính sách chưa phát huy tác dụng như trong khuôn khổ lý thuyết truyền thống đề ra. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mức độ truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng (thông qua phân tích cung tiền) có ảnh hưởng lớn đến sản lượng công nghiệp, lạm phát, và thị trường chứng khoán hơn so với các kênh còn lại. Từ đó, các tác giả cho rằng việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời điểm hiện nay cần chú trọng vào điều hành cung tiền như là một chỉ số
quan trọng.
Để tìm kiếm thêm bằng chứng về sự tồn tại của kênh tín dụng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam, Chu Khánh Lân (2013) đã tiến hành một nghiên cứu
thực nghiệm tập trung vào kênh tín dụng ngân hàng. Tác giả sử dụng dữ liệu vĩ mô theo quý trong giai đoạn 2000 – 2011 và phương pháp tiếp cận VAR để đánh giá vai trò của kênh tín dụng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ tới nền kinh tế thông qua đo lường mối quan hệ giữa sản lượng, lạm phát, lãi suất, cung tiền và tín dụng của nền kinh tế Việt Nam. Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy mức độ khuếch đại của kênh tín dụng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ là khá nhanh và mạnh trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, bài nghiên cứu chưa chỉ ra được các tác động bất đối xứng của chính sách tiền tệ đến tăng trưởng tín dụng qua các ngân hàng, do đó, chưa làm rõ được vai trò của các ngân hàng trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng.
Theo sự hiểu biết của chúng tôi, hiện nay chỉ có một bài nghiên cứu nhằm giải quyết chủ đề về kênh cho vay ngân hàng ở Việt Nam bằng cách sử dụng dữ liệu vi mô của các ngân hàng được thực hiện bởi Nguyễn Phúc Cảnh và cộng sự (2013), trong đó các tác giả đã sử dụng phương pháp GMM sai phân và dữ liệu bảng gồm các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2003 – 2012 để phân tích vai trò của các ngân hàng trong truyền dẫn chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các đặc điểm về vốn, tính thanh khoản, và rủi ro của các ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến phản ứng của tín dụng ngân hàng trước một cú sốc tiền tệ. Tuy nhiên, vài hạn chế của bài nghiên cứu này nên được thừa nhận. Việc sử dụng dữ liệu bảng không cân đối có thể dẫn đến ước lượng chệch do chọn mẫu (Verbeek và Nijman, 1992), do đó các tác giả nên tiến hành kiểm định độ chệch lựa chọn để đảm bảo độ tin cậy cho các kết quả ước lượng. Ngoài ra, bài nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc xem xét tác động của cú sốc tiền tệ đến tăng trưởng tín dụng qua các ngân hàng, chứ chưa đi vào đo lường tác động của tăng trưởng tín dụng lên các biến số vĩ mô của nền kinh tế để kiểm tra xem liệu chính sách tiền tệ có thực sự hiệu quả hay không. Chúng tôi sẽ cố gắng giải quyết những vấn đề này trong bài nghiên cứu của chúng tôi.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu
Bernanke và Blinder (1992) cho rằng dữ liệu chuỗi thời gian vĩ mô thì không hữu ích trong việc xác định kênh cho vay ngân hàng – một phân kênh của kênh tín dụng. Dữ liệu tổng hợp không cho phép chúng tôi phân biệt giữa các yếu tố cung và cầu tác động đến hoạt động cho vay của các ngân hàng. Ngược lại, dữ liệu phân tách của các ngân hàng có thể nắm bắt được một cách hiệu quả các tác động phân phối của chính sách tiền tệ qua kênh cho vay ngân hàng.
Hai phương pháp thường được sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm để kiểm tra sự tồn tại của kênh cho vay bằng dữ liệu phân tách của các ngân hàng. Một là phân chia các ngân hàng theo quy mô, vốn hóa, và thanh khoản (ví dụ như Kashyap và Stein, 1995, 2000; Kishan và Opiela, 2000, 2006; Altunbas và cộng sự, 2002). Cách tiếp cận này đòi hỏi một số lượng ngân hàng lớn, điều này không có vấn đề đối với Mỹ. Nhưng số lượng ngân hàng ở Việt Nam thì tương đối nhỏ, vì vậy cách tiếp cận này là không khả thi. Một phương pháp thay thế khác là sử dụng mô hình bảng, cho phép phản ứng của tín dụng ngân hàng đối với những thay đổi trong chính sách tiền tệ trở nên phụ thuộc vào các đặc điểm ngân hàng (theo Ehrmann và cộng sự, 2003; Matousek và Sarantis, 2009). Cách tiếp cận này giúp tránh được vấn đề liên quan đến số lượng ngân hàng như đã nêu ở trên, và nó được sử dụng trong bài nghiên cứu của chúng tôi.
Matousek và Sarantis (2009) đã phát triển mô hình thị trường tín dụng được rút ra từ Bernanke và Blinder (1988). Bằng chứng về kênh cho vay ngân hàng được thu thập bằng cách ước lượng một hàm số tín dụng ngân hàng không chỉ tính đến chỉ số chính sách tiền tệ và các biến số kinh tế vĩ mô, mà còn tính đến các đặc điểm đặc trưng ngân hàng, thể hiện phản ứng của tín dụng ngân hàng đối với chính sách tiền tệ một cách trực tiếp (thông qua kênh lãi suất truyền thống, hay còn gọi là kênh tiền tệ) và đối với các đặc điểm ngân hàng (kênh cho vay). Tương tự Matousek và Sarantis