Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Hoạt Động Huy Động Vốn Tiền Gửi Khách Hàng Cá Nhân Của Nhtm


chứng thực của ngân hàng cũng có giá trị tương tự như các loại hình tiết kiệm thông thường giao dịch trực tiếp tại quầy.

* Căn cứ theo kỳ hạn gửi tiền

Theo tiêu thức này, các hình thức huy động vốn tiền gửi khách hàng cá nhân của NHTM bao gồm:

- Tiền gửi không kỳ hạn (Tiền gửi thanh toán): Là tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút tiền, gửi tiền, thực hiện các giao dịch thanh toán qua NH tại bất kỳ thời điểm nào mà không cần thông báo trước cho NH.

- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ gửi vào Ngân hàng trong một khoảng thời gian xác định nhằm mục đích hưởng lãi.

- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Gửi tiết kiệm không kỳ hạn lãi suất sẽ tính theo số ngày thực gửi. Lãi suất của hình thức tiết kiệm này thường thấp hơn nhiều so với loại có kỳ hạn.

- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ có thể rút tiền sau một kỳ hạn tiền gửi nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm. Các tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm thường có các kỳ hạn khác nhau để người gửi tiền lựa chọn : 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng…

* Căn cứ theo loại tiền gửi

Theo tiêu thức phân loại này, các hình thức huy động vốn tiền gửi khách hàng cá nhân của NHTM thường được chia thành tiền gửi nội tệ (VND), tiền gửi ngoại tệ (USD, EUR…).

- Huy động vốn nội tệ:

Tiền gửi bằng nội tệ của các tầng lớp dân cư: Đây chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm, nguồn này có quy mô, cơ cấu lớn trong tổng nguồn huy động bằng nội tệ nhưng tăng trưởng không ổn định. Nhược điểm huy động tiền gửi tiết kiệm có lãi suất huy động bình quân cao, kỳ hạn tiền gửi danh nghĩa của người dân thường


ngắn ngắn (kỳ hạn nhỏ hơn 12 tháng). Điều này đã ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn, khả năng dịch chuyển kỳ hạn dư nợ, kết quả kinh doanh và giảm sức cạnh tranh của NHTM.

Tiền gửi bằng nội tệ của các TCKT-XH: Nguồn tiền này cũng có quy mô, cơ cấu lớn trong tổng nguồn huy động. Tiền gửi này thường là tiền gửi giao dịch hoặc có kỳ hạn ngắn, hưởng lãi suất thấp. Nếu ngân hàng huy động được nhiều để cho vay và đầu tư thì không những kéo dài được chênh lệch lãi suất hai đầu trần và sàn, giảm được chi phí vốn bình quân, tăng lợi nhuận.

Tiền gửi bằng nội tệ của các TCTD khác: Nguồn này có qui mô, cơ cấu nhỏ trong tổng nguồn tiền gửi bằng nội tệ. Nguồn tiền gửi của các TCTD khác thường có mức độ tăng trưởng khá cao nhưng chủ yếu là nguồn trong thanh toán, ngân hàng cũng không sử dụng nhiều nguồn này để cho vay và đầu tư.

Đi vay bằng nội tệ: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước NHTW thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều NHTM vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Việc đi vay bằng đồng nội tệ chủ yếu là để đáp ứng sự thiếu hụt dự trữ.

- Huy động vốn bằng ngoại tệ:

Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư: Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc huy động vốn bằng ngoại tệ luôn bị tác động mạnh bởi lãi suất ngoại tệ trên thị trường quốc tế và tính trạng khan hiếm tiền đồng VND. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) liên tục cắt giảm lãi suất cho vay từ đó lãi suất huy động bằng USD của các ngân hàng luôn giảm mạnh, hệ quả là người dân chuyển sang dùng đồng tiền có giá (đổi USD sang VND chuyển sang gửi tiết kiệm bằng đồng VND để hưởng lãi suất cao hơn).

Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCKT-XH: Đây chủ yếu là các khoản tiền gửi trong thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn ngắn thường từ 1-3 tháng.

Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD khác: Nguồn tiền này chiếm tỷ trọng


cao nhất trong tổng số vốn huy động bằng ngoại tệ.

Tại Việt Nam đối tượng cho vay chủ yếu là các NHTM nhà nước. Tiền vay bằng ngoại tệ: cũng giống như tiền vay bằng nội tệ, chỉ khi thật sự cần thiết NHTM mới đi vay nhất là bằng ngoại tệ với lãi suất cao và đầy biến động. Do vậy lượng vay này thường nhỏ.

1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động huy động vốn tiền gửi khách hàng cá nhân của NHTM

* Quy mô và sự tăng trưởng nguồn vốn

Quy mô là chỉ tiêu phản ánh số lượng nguồn vốn tiền gửi huy động từ khách hàng cá nhân của ngân hàng. Với quy mô nguồn vốn huy động tiền gửi khách hàng cá nhân ngày càng tăng sẽ hỗ trợ vốn cho ngân hàng hoạt động, phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động của mình, quy mô cũng tạo điều kiện nâng cao tính thanh khoản, tính ổn định và tăng niềm tin của khách hàng. Nguồn vốn huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân có quy mô khác nhau theo từng giai đoạn. Các ngân hàng có quy mô lớn thì thường có ưu thế huy động hơn các ngân hàng quy mô nhỏ. Trong tình hình cạnh tranh nhau về thị phần khách hàng, lãi suất thường không có sự khác biệt nhiều giữa các ngân hàng, do vậy khách hàng thường lựa chọn các ngân hàng có quy mô lớn để đảm bảo tính an toàn, thanh khoản cho khoản tiền gửi của mình.

* Cơ cấu nguồn vốn huy động

Cơ cấu nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và ảnh hưởng tới chi phí hoạt động bình quân của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới chi phí đầu ra tức lãi suất cho vay của ngân hàng. Cơ cấu huy động phải phù hợp với cơ cấu sử dụng, đáp ứng yêu cầu sử dụng,, để tối đa dư nợ tín dụng và đầu tư, từ đó sẽ tối đa lợi nhuận mà không phải trả lãi suất trên phần vốn huy động thừa. thông qua việc xác định cơ cấu vốn có thể xác định mặt mạnh, mặt yếu của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh.

* Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển quy mô hoạt động vốn tiền gửi từ khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại


Chỉ tiêu tăng trưởng quy mô vốn là một trong những mục tiêu quan trọng của ngân hàng, thể hiện qua gia tăng về nguồn vốn huy động.

- Tăng trưởng về số dư huy động vốn từ khách hàng cá nhân: số dư huy động vốn từ hoạt động huy động vốn từ khách hàng cá nhân là tổng số dư tiền gửi các khoản huy động vốn từ khách hàng cá nhân tại NHTM vào một thời điểm nhất định. Đây là chỉ tiêu mang tính thời điểm. Sự gia tăng hoặc sụt giảm của chỉ tiêu này cho thấy sự gia tăng hoặc sụt giảm của hoạt động huy động vốn từ khách hàng cá nhân của ngân hàng.




Tỷ lệ tăng vốn huy động = (

Số dư vốn huy động bình quân của

12 tháng năm nay


- 1 ) x 100%


Số dư vốn huy động bình quân của

12 tháng năm trước


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Huy động vốn tiền gửi khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Công thương VN – CN KCN Tiên Sơn - 4

Trong đó:


Số dư vốn huy động bình quân =

(

Số dư đầu tháng 1 +




Số dư đầu tháng 12 +


Số dư cuối tháng 1

+

+

Số dư cuối tháng 12

) : 12 Tháng

2




2


* Thị phần trong hoạt động huy động vốn tiền gửi từ khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại.


Phần doanh số của ngân hàng

Thị phần = x 100%

Tổng doanh số của thị trường

Tăng trưởng về thị phần trong hoạt động huy động vốn tiền gửi từ khách hàng cá nhân là việc gia tăng theo doanh số và số dư từ hoạt động huy động vốn tiền gửi từ khách hàng cá nhân của NHTM so với tổng doanh số và số dư trên thị trường.


Ngân hàng nào chiếm được thị phần lớn sẽ có lợi thế thống trị thị trường. Vì chiến lược chiếm thị phần, nhiều ngân hàng sẵn sàng chi phí lớn và hi sinh nhiều lợi ích khác.

* Lãi suất và chi phí vốn tiền gửi huy động

Những nguồn vốn tiền gửi huy động từ khách hàng cá nhân có thời hạn ngắn thường có chi phí thấp và tính ổn định thấp, những khoản tiền gửi dài hạn có chi phí cao hơn nhưng lại ổn định hơn. Để hoạch định chiến lược kinh doanh cho mỗi giai đoạn, NHTM phải tính toán, phân tích chi phí phải trả cho mỗi nguồn huy động để từ đó có sách lượt huy động vốn phù hợp với mục tiêu mở rộng kinh doanh đồng thời đảm bảo tài sản được định giá bù đắp được chi phí nguồn vốn mà không ảnh hưởng đến khả năng thanh toán. Lãi suất thực tế mà ngân hàng phải trả cho nguồn vốn còn tùy thuộc vào số lần trả lãi, thời điểm trả lãi (trả lãi ngay sau khi gửi hay trả lãi khi đến hạn) và lãi suất cố định hay thả nổi. Việc tính chi phí cho từng loại nguồn vốn tiền gửi huy động cụ thể cho phép các nhà quản lý trả lời câu hỏi: nguồn nào rẻ hơn, nên vận dụng lãi suất như thế nào và thu nhập từ tài sản tăng thêm có bù đắp được chi phí cho nguồn vốn tăng thêm. Từ đó, NHTM quyết định lựa chọn cơ cấu nguồn vốn của mình và có giải pháp huy động vốn thích hợp.

Khi quyết định mở rộng kinh doanh, tăng cường quy mô tài sản có hiệu quả ngân hàng xác định chi phí biên của nguồn vốn làm căn cứ lựa chọn cơ cấu vốn tiền gửi cần huy động thêm.

- Các phương pháp xác định chi phí huy động vốn tiền gửi từ khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại.

Khi gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng được gửi một lãi suất tỷ lệ thuận với thời gian và quy mô của tiền gửi. Bên cạnh mục tiêu an toàn, khách hàng càng ngày càng quan tâm đến lãi suất. Họ so sánh lợi ích của tiêu dùng và tiết kiệm. Nếu lãi suất của ngân hàng hấp dẫn hơn, khách hàng có xu hướng gia tăng tiết kiệm.

Giá sản phẩm của ngân hàng là một bộ phận cấu thành chất lượng sản phẩm. Độ thỏa mãn của sản phẩm của ngân hàng đối với khách hàng được quyết định chủ yếu bởi chất lượng phục vụ và giá. Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, cũng như


quá trình tự do hóa thị trường tài chính của nhiều quốc gia, độ nhạy cảm đối với giá sản phẩm của ngân hàng ngày càng gia tăng. Đó là điều kiện để các ngân hàng đẩy mạnh cạnh tranh thông qua giá và phí giá. Định giá sản phẩm đúng, kịp thời và đa dạng sẽ thúc đẩy tính cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường, cho phép ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng để tăng doanh lợi.

Quản lý lãi suất của các khoản nợ là một bộ phận rất quan trọng trong quản lý chi phí của ngân hàng. Lãi suất chi trả ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và cơ cấu nguồn huy động. Cụ thể là xác định các loại và cơ cấu lãi suất trả cho các nguồn tiền khác nhau nhằm duy trì và mở rộng quy mô cũng như kết cấu nguồn.

Chi trả lãi là khoản chi lớn nhất của ngân hàng thương mại và có xu hướng gia tăng do gia tăng quy mô huy động cũng như kỳ hạn huy động. Lãi phải trả sẽ cao hơn nếu kỳ hạn huy động dài hơn. Tiền gửi của khách hàng chiếm tỷ trọng cao nên lãi trả tiền gửi là bộ phận chủ yếu trong chi trả lãi của nguồn vốn.

Chi trả lãi phụ thuộc vào quy mô huy động, cấu trúc huy động, lãi suất huy động và hình thức trả lãi trong kỳ. Chi lãi được tính cho từng ngày dựa vào số dư của các số tiền gửi và các hợp đồng đi vay. Tuy nhiên, việc tính lãi hàng ngày rất khó do ngân hàng thương mại có nhiều loại tiền gửi với các lãi suất khác nhau và thường xuyên thay đổi.

1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến huy động vốn tiền gửi khách hàng cá

nhân của NHTM

* Các yếu tố chủ quan

Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến khả năng HĐVTG đối với KHCN tại NHTM là những nhân tố mà bản thân NHTM có thể kiểm soát và điều chỉnh được.

- Sản phẩm huy động vốn tiền gửi khách hàng cá nhân

Lãi suất HĐVTG đối với KHCN là mức lãi suất mà các NHTM phải trả cho người gửi tiền khi ngân hàng sử dụng nguồn vốn trong một khoảng thời gian nhất định. Đây chính là chi phí sử dụng vốn của ngân hàng, do đó các NHTM phải xây dựng mức lãi suất HĐVTG đối với KHCN sao cho đảm bảo được yêu cầu tối


thiểu hóa chi phí sử dụng vốn của ngân hàng và vẫn đủ sức cạnh tranh với các NHTM khác. Lãi suất huy động vốn càng cao khả năng HĐVTG đối với KHCN của NHTM càng nhiều. Định giá nguồn vốn huy động tiền gửi là một việc làm quan trọng và khá phức tạp đối với các nhà quản trị ngân hàng. Nếu ngân hàng phải trả một mức lãi suất cao để thu hút và duy trì sự ổn định lượng tiền gửi của khách hàng thì phải chịu áp lực về việc gia tăng chi phí, giảm lợi nhuận. Ngược lại, lãi suất huy động tiền gửi vốn thấp, không đảm bảo được lợi ích của khách hàng thì rất khó thu hút đầu tư vào ngân hàng. Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, việc duy trì lãi suất cạnh tranh là điều khó tránh khỏi. Các ngân hàng cạnh tranh với nhau để thu hút nguồn vốn tiền gửi không chỉ với các ngân hàng khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm, với các bộ phận của thị trường vốn. Đây có thể nói là nhân tố rất quan trọng nhằm tác động vào các đối tượng khách hàng gửi tiền khác nhau, đặc biệt là trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay.

Sự đa dạng của các sản phẩm huy động vốn góp phần thỏa mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng, giúp khách hàng lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp. Tính đa dạng của loại hình huy động vốn thể hiện ở huy động vốn trả lãi cuối kỳ, huy động vốn trả lãi định kỳ, huy động vốn trả lãi trước, huy động vốn được rút vốn bất kỳ lúc nào, huy động vốn tích lũy. Như vậy, ngân hàng có nhiều sản phẩm huy động sẽ đáp ứng được nhu cầu đa dạng của KHCN, từ đó, nâng cao khả năng thu hút vốn tiền gửi từ KHCN.

- Sự đa dạng của các dịch vụ ngân hàng

Dịch vụ ngân hàng là những dịch vụ đã được các ngân hàng thực hiện từ những lợi thế cơ bản của ngân hàng kể cả các dịch vụ cấp cho khách hàng dựa trên nền tảng công nghệ tin học hiện đại. Ngày nay với sự phát triển tốc độ cao của công nghệ thông tin, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng dần được cải thiện theo hướng hiện đại hóa. Từ đó, ngân hàng có thêm những kênh phân phối sản phẩm hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng nói chung và KHCN nói riêng được nhanh chóng và tiện lợi. Tùy theo trình độ và khả năng bảo mật mà ngân hàng sẽ cung cấp dịch vụ ngân hàng hiện đại theo cấp độ khác nhau như


home banking, internet banking, ATM, phone banking, mobile banking… những ngân hàng nào đáp ứng mức độ thỏa mãn của KHCN càng cao thì khả năng thu hút khách hàng gửi tiền càng nhiều.

- Cơ sở vật chất

Một NHTM có trụ sở kiên cố, bề thế, mạng lưới các chi nhánh rộng khắp cùng các trang thiết bị và công nghệ hiện đại… sẽ là một trong những nhân tố tạo uy tín cho KHCN gửi tiền vào ngân hàng.

Cơ sở vật chất đầy đủ tiện nghi, công nghệ cao giúp công tác huy động vốn được cải tiến, rút ngắn thời gian giao dịch và thực hiện nghiệp vụ chính xác sẽ tạo lòng tin, sự an tâm cho KHCN khi giao dịch. Nhờ vậy, ngân hàng có khả năng thu hút được nhiều vốn, nhiều KHCN và tăng thu nhập cho ngân hàng.

- Đội ngũ nhân sự.

Khi khách hàng đến ngân hàng thì những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng chính là nhân viên giao dịch. Có thể nói, hình tượng của nhân viên ngân hàng cũng chính là hình tượng của ngân hàng. Nếu thái độ của nhân viên ngân hàng thân thiện, niềm nở sẽ tạo cho khách hàng một tâm lý thoải mái khi đến ngân hàng, làm khách hàng hài lòng và từ đó tăng lượng khách hàng đến gửi tiền. Nhưng ngược lại, nếu thái độ của nhân viên phục vụ thiếu thân thiện sẽ gây phản cảm với khách hàng. Chỉ cần một khách hàng cảm thấy thái độ của nhân viên không tốt có thể sẽ ảnh hưởng đến hình tượng của cả ngân hàng với nhiều người khác nữa và sẽ khiến cho lượng hàng khách đến với ngân hàng sụt giảm.

Các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp, cũng như các kế hoạch, biện pháp thu hút tiền gửi đều được thực hiện bởi đội ngũ nhân viên ngân hàng. Trình độ của cán bộ nhân viên ngân hàng càng cao thì sẽ khiến cho số lượng cũng như chất lượng của các sản phẩm của ngân hàng cũng tăng lên tỷ lệ thuận.

- Uy tín

Uy tín của ngân hàng được đặt lên hàng đầu khi người ta lựa chọn nơi gửi gắm tài sản, nơi cung cấp nguồn vốn, nơi để đầu tư hay bảo lãnh cho các hợp đồng.... Với người gửi tiền thì không thể phủ nhận lãi suất và các chương trình

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 16/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí