toàn bộ quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng dự án không được ảnh hưởng đến mục tiêu, quy mô, tiêu chuẩn kỹ thuật, tiến độ thực hiện dự án và phải đáp ứng các điều kiện đầu tư, kinh doanh theo quy định của pháp luật về đầu tư, các điều kiện khác đã thỏa thuận tại hợp đồng dự án. Thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư theo hợp đồng dự án phải được lập thành văn bản ký kết giữa các bên trong hợp đồng dự án và bên nhận chuyển nhượng. Bên cho vay tham gia đàm phán thỏa thuận chuyển nhượng theo quy định tại hợp đồng vay. Trường hợp chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng dự án làm thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp dự án thực hiện thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Trong trường hợp bên cho vay là chủ thể nhận chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng dự án từ nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án, bên cho vay có thể trực tiếp tiếp nhận hoặc chỉ định tổ chức đủ năng lực tiếp nhận một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án khi nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp dự án không thực hiện được các nghĩa vụ quy định tại hợp đồng dự án hoặc hợp đồng vay vốn. Thỏa thuận về quyền tiếp nhận dự án phải được lập thành văn bản giữa bên cho vay với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc với các bên ký kết hợp đồng dự án. Sau khi tiếp nhận dự án, bên cho vay hoặc tổ chức được bên cho vay chỉ định phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tương ứng của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án theo quy định tại hợp đồng dự án và thỏa thuận về quyền tiếp nhận dự án.
Theo Điều 54 của Luật PPP về chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, quyền và nghĩa vụ hợp đồng dự án PPP quy định: (1) Trường hợp doanh nghiệp dự án PPP do nhà đầu tư liên danh thành lập, các thành viên có quyền chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp cho nhau nhưng phải bảo đảm tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu của từng thành viên theo quy định. (2) Nhà đầu tư có quyền chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp cho nhà đầu tư khác sau khi hoàn thành xây dựng công trình đối với dự án có cấu phần xây dựng hoặc sau khi chuyển sang giai đoạn vận hành đối với dự án không có cấu phần xây dựng.
3.1.2.8 Công khai thông tin trong dự án thực hiện theo hợp đồng BOT giao thông đường bộ
Vấn đề công khai các thông tin cần thiết trong toàn bộ quy trình thực hiện dự án BOT được dư luận đặc biệt quan tâm bởi nó ảnh hưởng đến tính minh bạch của toàn bộ dự án, các cơ chế và chính sách càng minh bạch sẽ càng nhận được sự quan tâm, đánh giá cao của các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Tại Điều 9 Luật PPP đã quy định về các thông tin phải được công bố trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia bao gồm: (a) Thông tin về quyết định chủ trương đầu
tư, quyết định phê duyệt dự án PPP; (b) Thông tin về lựa chọn nhà đầu tư bao gồm: thông báo mời sơ tuyển, thông báo mời thầu, danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà đầu tư; (c) Thông tin về nhà đầu tư được lựa chọn, doanh nghiệp dự án PPP; (d) Nội dung chính của hợp đồng dự án PPP bao gồm: tổng mức đầu tư; cơ cấu nguồn vốn trong dự án; loại hợp đồng; thời hạn thực hiện dự án; giá, phí sản phẩm, dịch vụ công; hình thức và địa điểm thu giá, phí (nếu có) và các thông tin cần thiết khác; (đ) Giá trị quyết toán vốn đầu tư công trong dự án PPP trong trường hợp có sử dụng vốn đầu tư công; (e) Văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư theo phương thức PPP;
(g) Cơ sở dữ liệu về nhà đầu tư; (h) Thông tin giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, xử lý vi phạm pháp luật về đầu tư theo phương thức PPP. Ngoài việc công bố trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, các thông tin quy định tại các điểm a, b, c và d kể trên phải được công bố trên trang thông tin điện tử (nếu có) của cơ quan có thẩm quyền. Tất cả các thông tin nêu trên được khuyển khích đăng tải tren các phương tiện thông tin đại chúng khác.
Về công khai thông tin hợp đồng, Khoản 2 Điều 65 Nghị định 35/2021/NĐ- CP ngày 29/3/2021 quy định rất chi tiết. Theo đó, cơ quan ký kết hợp đồng có trách nhiệm công khai thông tin hợp đồng dự án trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, Nội dung thông tin được công khai bao gồm: (a) Tên dự án; số hiệu hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng; (b) Tên, địa chỉ của cơ quan có thẩm quyền; cơ quan ký kết hợp đồng; (c) Tên, địa chỉ của nhà đầu tư; tên, địa chỉ của doanh nghiệp dự án PPP được thành lập; (d) Địa điểm thực hiện dự án, diện tích đất sử dụng; (đ) Các thông số cơ bản để giám sát chất lượng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ công doanh nghiệp dự án PPP cung cấp trong giai đoạn vận hành; (e) Tổng mức đầu tư; cơ cấu nguồn vốn trong dự án; vốn nhà nước trong dự án PPP (nếu có); phần nộp ngân sách nhà nước hoặc thời gian thực hiện hợp đồng trong dự án PPP (nếu có); giá, phí sản phẩm, dịch vụ công, hình thức và địa điểm thu giá, phí (nếu có); nội dung chia sẻ doanh thu (nếu có); (g) Loại hợp đồng, thời hạn hợp đồng, thời điểm dự kiến chuyển giao công trình dự án (nếu có); (h) Các thông tin cần thiết khác. Trường hợp sửa đổi, ký kết bổ sung phụ lục hợp đồng dự án dẫn đến thay đổi những thông tin trên, cơ quan ký kết hợp đồng cập nhật trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ký kết phụ lục hợp đồng. Các nội dung công khai này được khuyến khích đăng tải trên trang thông tin điện tử của bộ, cơ quan trung ương, cơ quan khác, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng khác.
Có thể thấy theo quy định của Luật PPP, việc công khai thông tin chỉ được quy định cụ thể trong giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư và giai đoạn ký kết
hợp đồng dự án. Ở các giai đoạn khác, việc công khai thông tin chưa được quy định hoặc quy định không rõ ràng đặc biệt là chưa quy định rõ nghĩa vụ công khai thông tin của chủ đầu tư/doanh nghiệp dự án. Luật PPP có quy định về giám sát cộng đồng, tuy nhiên chưa có quy định cung cấp đủ thông tin để cộng đồng có thể giám sát hoạt động của dự án như cần quy định việc chủ đầu tư cần công khai thông tin về chuyển giao công trình, thủ tục, thời hạn thanh lý hợp đồng, thanh toán các khoản nợ, công khai báo cáo tài chính,… Cần nghiên cứu bổ sung thêm các quy định về trách nghiệm minh bạch của chủ đầu tư/doanh nghiệp dự án thì hoạt động giám sát cộng đồng mới có thể phát huy được tác dụng thực sự.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Pháp Luật Về Hợp Đồng Xây Dựng - Kinh Doanh - Chuyển Giao (Bot) Trong Các Dự Án Giao Thông Đường Bộ Ở Việt Nam
- Chủ Thể Hợp Đồng Bot Trong Các Dự Án Về Giao Thông Đường Bộ
- Nguyên Tắc Giao Kết Hợp Đồng Bot Trong Các Dự Án Về Giao Thông Đường Bộ
- Xử Lý Vi Phạm Hợp Đồng Và Giải Quyết Tranh Chấp Đối Với Dự Án Bot Giao Thông Đường Bộ
- Phân Loại Dự Án Ppp Giao Thông Theo Loại Hợp Đồng
- Đánh Giá Về Thực Hiện Pháp Luật Hợp Đồng Bot Trong Các Dự Án Về Giao Thông Đường Bộ Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.
3.1.2.9 Nguồn vốn thực hiện hợp đồng BOT trong các dự án giao thông đường bộ ở Việt Nam
Đặc trưng của các dự án hạ tầng công cộng, đó chính là vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư dài và lâu thu hồi vốn nên việc quản lý tài chính đối với các dự án đầu tư này là rất cần thiết. Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề tài chính của dự án thực hiện theo hợp đồng BOT được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là theo Luật PPP.
Theo Khoản 2 Điều 69 Luật PPP, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án BOT giao thông đường bộ không quá 50% tổng mức đầu tư của dự án. Đối với dự án có nhiều dự án thành phần, trong đó có dự án thành phần đầu tư theo phương thức PPP thì tỷ lệ vốn nhà nước quy định tại khoản này được xác định trên tổng mức đầu tư của dự án thành phần đó. Ngoài ra Nhà nước còn có các nguồn vốn hỗ trợ dự án bao gồm: (1) Vốn nhà nước hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng, (2) Vốn nhà nước thanh toán cho doanh nghiệp dự án PPP cung cấp sản phẩm, dịch vụ công,
(3) Vốn nhà nước bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm.
Về vốn thực hiện của nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án BOT giao thông đường bộ, theo Luật PPP quy định nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chịu trách nhiệm góp vốn chủ sở hữu, huy động vốn vay và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện dự án theo quy định tại hợp đồng dự án. Trong đó nhà đầu tư phải góp vốn chủ sở hữu tối thiểu là 15% tổng mức đầu tư dự án không bao gồm Vốn nhà nước hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng và Vốn nhà nước bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư; hỗ trợ xây dựng công trình tạm.
Qua khảo sát thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, tác giả luận án cho rằng nhóm quy phạm pháp luật quy định về nguồn vốn thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, hạn chế, bất cập của quy định về phần vốn góp của nhà đầu tư. Việc quy định tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng vốn đầu tư như quy định của
Luật PPP là chưa phù hợp và còn thấp, bởi những dự án giao thông đường bộ thực hiện theo hình thức hợp đồng BOT là những dự án đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn, ngoài phần vốn tham gia của nhà nước vào dự án thì phần còn lại đòi hỏi nhà đầu tư phải có vốn chủ sở hữu đủ lớn để đảm bảo khả năng thực hiện dự án thành công, phần còn thiếu nhà đầu tư mới huy động từ các tổ chức tín dụng. Theo quy định hiện hành, do lệ vốn chủ sở hữu trên tổng vốn đầu tư thấp nên chắc chắn nhà đầu tư phải vay vốn từ bên ngoài (chủ yếu là từ các tổ chức tín dụng) và như vậy sẽ đẩy chi phí đầu tư lên cao vì phải gánh lãi suất ngân hàng lớn. Đây chính là nguyên nhân giải thích vì sao nhiều sự án BOT đường bộ bị chậm tiến độ so với dự kiến và dự toán vốn đầu tư thường bị đẩy lên cao sau một thời gian thực hiện.
Thực tế cho thấy rất nhiều dự án tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư đã không thực hiện theo đúng cam kết, việc không thực hiện góp vốn theo đúng tỷ lệ như đã cam kết một phần do nguyên nhân: Vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư chủ yếu tập trung vào các tài sản như nhà xưởng, trụ sở, bất động sản... Do vậy, khi thực hiện dự án, nhà đầu tư sẽ rất khó huy động vốn để thực hiện dự án.
Thứ hai, hạn chế, bất cập của quy định về phần vốn tham gia của Nhà nước. Các bằng chứng cho thấy cấu trúc tài trợ vốn rất quan trọng đối với sự thành công của dự án BOT đường bộ, trong đó cấu trúc tài trợ vốn được hiểu bao gồm tỷ lệ phần vốn góp của Nhà nước và tư nhân trong dự án. Chính phủ cần mở rộng biên độ hỗ trợ vốn nhằm tăng tính khả thi về tài chính của dự án BOT đường bộ.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (1997), tính khả thi về tài chính của dự án phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu thị trường, cơ cấu thuế, thời gian nhượng quyền, tính hấp dẫn của dự án và các rủi ro bất khả kháng. Các hỗ trợ của Chính phủ là cần thiết (đặc biệt đối với các nước đang phát triển) để đảm bảo có thể thu hút được tư nhân tham gia và nhu cầu của người dân được thỏa mãn. Do đó, tại các nước đang phát triển, hợp đồng BOT đặc biệt là BOT đường bộ sẽ không thu hút được khu vực tư nhân nếu mức độ hỗ trợ của Chính phủ không đủ lớn. Để đảm bảo tính phù hợp, nhà đầu tư và Chính phủ nên thỏa thuận về chia sẻ rủi ro và thời hạn sở hữu dự án có hiệu quả với quan điểm hỗ trợ bộ phận dân cư có thu nhập thấp. Chính phủ nên thu phí thấp hơn giá trị thực tế, đồng thời để đảm nhà đầu tư có thể hoàn vốn nhanh. Chính phủ cần phải tăng thêm mức hỗ trợ để bù đắp mức phí thấp. Như vậy, mức hỗ trợ của Chính phủ phù hợp sẽ cải thiện điều kiện tài chính và tăng tính hấp dẫn của dự án BOT.
3.1.2.10 Ưu đãi và đảm bảo đầu tư cho dự án BOT giao thông đường bộ
Ở Việt Nam, Luật PPP đã dành cả chương VII để quy định về ưu đãi và bảo đảm đầu tư, cụ thể:
Điều 79 của Luật PPP về ưu đãi đầu tư quy định Nnà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được hưởng các ưu đãi về thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật về thuế, đất đai, đầu tư và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Về bảo đảm đầu tư, Luật quy định nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP được hưởng các bảo đảm đầu tư theo quy định của Luật này và pháp luật về đầu tư; được bảo đảm về quyền tiếp cận đất, quyền, sử dụng đất và tài sản công khác; được bảo đảm cung cấp dịch vụ công; được bảo đảm quyền thế chấp tài sản, quyền kinh doanh công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng theo quy định; được bảo đảm cân đối ngoại tệ đối với dự án quan trọng.
Đặc biệt, Điều 82 Luật PPP có một nét rất mới được đánh giá cao đó là cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu. Khi doanh thu thực tế đạt cao hơn 125% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP chia sẻ với Nhà nước 50% phần chênh lệch giữa doanh thu thực tế và mức 125% doanh thu trong phương án tài chính. Ngược lại, Khi doanh thu thực tế đạt thấp hơn 75% mức doanh thu trong phương án tài chính tại hợp đồng dự án PPP, Nhà nước chia sẻ với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP 50% phần chênh lệch giữa mức 75% doanh thu trong phương án tài chính và doanh thu thực tế. Điều khoản này tạo niềm tin cho các nhà đâu tư, giúp nhà đầu tư yên tâm hơn khi được nhà nước quan tâm, chia sẻ rủi ro về doanh thu dự án. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn chưa có những hướng dẫn sâu, cụ thể để thực hiện cơ chế chia sẻ tăng, giảm doanh thu này.
Như vậy, ngoài các quy định về phần vốn góp của nhà nước, nhà đầu tư thì còn có các quy định về các biện pháp hỗ trợ khác như hỗ trợ tiếp cận đất đai, kết cấu hạ tầng, công nghệ, chi sẻ rủi ro về doanh thu… Việc đưa các biện pháp hỗ trợ này vào nhằm để tăng sức hấp dẫn cho các dự án PPP nói chung và dự án BOT đường bộ nói riêng. Các khoản hỗ trợ trực tiếp như chi phí sử dụng đất, thuế, chi phí vốn, chia sẻ rủi ro doanh thu… là những ưu đãi thường được Chính phủ sử dụng để thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án đường bộ. Ngoài ra, các biện pháp hỗ trợ gián tiếp như bảo đảm cân đối ngoại tệ cũng là những biện pháp tốt nhằm hỗ trợ cho các nhà đầu tư tư nhân tham gia trong các dự án BOT đường bộ bởi các dự án này thực hiện trong thời gian rất dài, nguồn vốn lớn nên tỷ giá ngoại tệ sẽ có nhiều biến động dẫn đến nhiều rủi ro.
Có thể nhận thấy, hạn chế, bất cập trong quy định về bảo đảm đầu tư đối với dự án BOT đường bộ được thể hiện ở một số khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, các quy định về thực hiện bảo lãnh của chính phủ chưa được quy định cụ thể. Thực tế là các nhà đầu tư khi tham gia vào dự án PPP đều có xu hướng yêu cầu Chính phủ thực hiện trách nhiệm bảo lãnh của mình và được coi là cách thức chia sẻ rủi ro của Chính phủ đối với các nhà đầu tư tư nhân trong dự án BOT đường bộ. Tuy nhiên, luật PPP chưa có quy định về vấn đề này đồng thời luật không xác định rõ ràng cơ quan nào là cơ quan thay mặt Chính phủ bảo lãnh cho nhà đầu tư và đặc biệt là không xác định rõ những loại hợp đồng cụ thể nào sẽ thuộc đối tượng được Chính phủ cấp bảo lãnh việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Trong khi đó, để thực hiện dự án BOT đường bộ sẽ có rất nhiều hợp đồng được ký kết như hợp đồng vay, hợp đồng cung cấp nguyên vật liệu, hợp đồng thuê đất liên quan đến nhà đầu tư tư nhân… Với các hợp đồng này, nhà đầu tư hoặc bên có quyền thường đưa ra yêu cầu Chính phủ bảo lãnh để đảm bảo cho dự án BOT đường bộ được thực hiện một cách hiệu quả. Điều này đồng nghĩa với việc Chính phủ có thể phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đối với bên có quyền nếu đến hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ của họ theo hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, việc quy định không rõ ràng về cơ chế bảo lãnh chính phủ đối với các bên liên quan trong dự án BOT đường bộ nói riêng và PPP nói chung được xem là một rào cản đáng kể về phương diện chính sách. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây nhiều dự án BOT đường bộ bị chậm tiến độ so với kế hoạch dự kiến, một phần là do những vướng mắc về chính sách thực hiện cơ chế bảo lãnh Chính phủ, đặc biệt là bảo lãnh đối với các rủi ro về doanh thu của nhà đầu tư sau khi công trình dự án được đưa vào vận hành. Bằng chứng là việc thiếu hụt các chính sách cụ thể đối với cơ chế bảo lãnh của Chính phủ trong các dự án BOT đường bộ là một trong những nguyên nhân dẫn đến một số dự án giao thông có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài phải tạm dừng.
Ngoài ra, những vướng mắc trong cơ chế thực hiện bảo lãnh của Chính phủ đối với các dự án đầu tư BOT đường bộ hiện nay còn có nguyên nhân từ các quy định có tính giới hạn của Luật Quản lý nợ công. Điều này thể hiện ở chỗ, theo quy định của Luật Quản lý nợ công và Nghị định số 04/2017/NĐ-CP 16/01/2017 của Chính phủ về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ, đối tượng được bảo lãnh Chính Phủ là “Doanh nghiệp có dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Chính phủ, quyết định đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Luật Đầu tư và Luật Đầu tư công”. Các văn bản này chưa cho phép Chính
phủ cung cấp các loại bảo lãnh theo yêu cầu của nhà đầu tư cũng như yêu cầu của các bên liên quan - với tư cách là bên có quyền trong các hợp đồng, giao dịch phát sinh trong quá trình thực hiện dự án BOT đường bộ.
Qua thực tiễn đấu thầu dự án Tân Vạn - Nhơn Trạch và dự án Dầu Giây - Phan Thiết, các nhà đầu tư đều yêu cầu Chính phủ phải cung cấp các bảo lãnh đối với rủi ro về doanh thu, khả năng chuyển đổi ngoại tệ và thực hiện trách nhiệm của Chính phủ được đặt ra. Tuy nhiên, “do những vướng mắc về chính sách, pháp luật nên chúng ta vẫn chưa thể thực hiện bảo lãnh như yêu cầu của các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng nước ngoài đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến 2 dự án nếu trên cho đến nay vẫn chưa thể thực hiện được. Về vấn đề này, Bộ Tài chính đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả nghiên cứu cơ chế bảo lãnh Chính phủ thí điểm đối với các dự án giao thông trọng điểm.
Thứ hai, các quy định về chia sẻ rủi ro chưa được đề cập đến cả về mặt nguyên tắc cũng như cơ chế xác định và phân bổ rủi ro cho mỗi bên ra sao trong quá trình triển khai, thực hiện, vận hành các dự án BOT đường bộ. Các dự án BOT đường bộ thường được thực hiện trong thời gian dài, vốn đầu tư lớn nên trong quá trình thực hiện có thể xảy ra những rủi ro nhất định, có những rủi ro có thể lường trước được nhưng cũng có những rủi ro không lường trước được. Trên thực tế, việc phân chia rủi ro rất phức tạp, các bằng chứng cho thấy rủi ro rất khó để có thể quản lý hay phân bổ phù hợp. Tư nhân được xem có khả năng xử lý rủi ro tốt hơn nhà nước, nhưng điều này không đồng nghĩa là chuyển giao càng nhiều rủi ro càng tốt. Nhà nước phải đảm bảo quản lý và định giá rủi ro hiệu quả. Các rủi ro thương mại như thiết kế, xây dựng, vận hành, tài chính được chuyển giao cho tư nhân vì họ quản lý rủi ro này tốt hơn. Các rủi ro về chính sách và pháp lý được giữ lại cho khu vực công đảm nhiệm. Các rủi ro bất khả kháng thì cả hai đối tác cùng nhau chia sẻ. Cần có quy định điều chỉnh về những rủi ro trong BOT đường bộ, qua đó thể hiện cao hơn sự đảm bảo của Chính phủ để các nhà đầu tư có thể hoàn toàn yên tâm tham gia vào các dự án BOT đường bộ. Mặc dù, việc phân bổ rủi ro một cách hiệu quả và phù hợp là một trong các nhân tố quyết định đến sự thành công của các dự án BOT đường bộ nhưng hiện nay Luật PPP còn bỏ ngỏ việc quy định về nhận diện rủi ro, nguyên tắc phân bổ rủi ro và xử lý hậu quả do rủi ro đó gây ra như thế nào? Ai là người giải quyết khi rủi ro đó xảy ra? Ai là người phải gánh chịu trách nhiệm do rủi ro đó gây ra? Đây là một trong những nội dung cần phải các quy định một cách thỏa đáng để góp phần tạo niềm tin cho các bên khi tham gia vào hợp đồng BOT đường bộ.
3.1.2.11 Kiểm tra, giám sát hoạt động dự án BOT giao thông đường bộ
Đối với các dự án BOT đường bộ, do đây là những dự án có sử dụng một phần nguồn vốn đầu tư công hoặc được Nhà nước hỗ trợ nguồn lực và là những dự án mà việc thực hiện và sử dụng liên quan đến quyền và lợi ích của người dân có nhu cầu sử dụng dịch vụ công đó nên cần phải có cơ chế để kiểm tra, giám sát đối với hoạt động đầu tư, qua đó nhằm bảo đảm tính minh bạch của hoạt động đầu tư giao thông đường bộ theo hợp đồng BOT và cũng là để nhằm bảo đảm quyền lợi của cộng đồng dân cư mà trực tiếp là những người sử dụng dịch vụ công.
Luật PPP quy định khá chi tiết về kiểm tra, giám sát các hoạt động của dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư, trong đó dự án BOT giao thông đường bộ cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề quản lý, giám sát chất lượng công trình và giám sát chất lượng sản phẩm, dịch vụ, cụ thể:
Điều 59 của Luật quy định về quản lý, giám sát chất lượng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng quy định: (1) Doanh nghiệp dự án PPP chịu trách nhiệm tổ chức quản lý, giám sát về chất lượng, nghiệm thu các hạng mục và toàn bộ công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng theo quy định của pháp luật. (2) Trong quá trình tổ chức triển khai xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng theo hợp đồng, cơ quan ký kết hợp đồng có trách nhiệm: Tổ chức kiểm tra việc doanh nghiệp dự án PPP giám sát quá trình thi công xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng; Kiểm tra việc tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn thi công xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng; Tổ chức kiểm định chất lượng bộ phận, hạng mục và toàn bộ công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng khi có nghi ngờ về chất lượng hoặc khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền; Đề nghị doanh nghiệp dự án PPP yêu cầu nhà thầu điều chỉnh hoặc đình chỉ thi công khi xét thấy chất lượng công việc thực hiện không bảo đảm yêu cầu.
Điều 66 của Luật về giám sát chất lượng sản phẩm, dịch vụ công quy đinh:
(1) Doanh nghiệp dự án PPP phải bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm, dịch vụ công theo hợp đồng dự án PPP. (2) Cơ quan ký kết hợp đồng có trách nhiệm tổ chức giám sát chất lượng sản phẩm, dịch vụ công do doanh nghiệp dự án PPP cung cấp theo hợp đồng dự án PPP.
Công tác thanh, kiểm tra cũng được Luật quy định với những nội dung về kiểm tra hoạt động đầu tư theo phương thức PPP, thanh tra hoạt động đầu tư thep phương thức PPP, kiểm toán nhà nước trong hoạt động đầu tư theo phương thức PPP.
Một điểm mới đáng chú ý của Luật PPP là ngoài quy định Giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, còn có sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cộng đồng. Theo đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ trì tổ chức giám sát và