lưỡng về diễn biến kinh tế, tiền tệ hiện tại và dự báo trong tương lai và xác định rõ hướng phát triển kinh tế trong ngắn và dài hạn.
Mục tiêu hoạt động
Theo Lê Thị Tuyết Hoa & Đặng Văn Dân (2017), mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ mà NHTƯ có thể dự báo được và có thể tác động hay kiểm soát một cách trực tiếp hơn so với mục tiêu trung gian. Tiêu chuẩn lựa chọn các biến số làm chỉ tiêu của mục tiêu hoạt động cũng có tiêu chuẩn là (i) đo lường được, (ii) kiểm soát được và
(iii) tác động có thể dự báo đến mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của CSTT. Các biến số có thể lựa chọn làm chỉ tiêu của mục tiêu hoạt động bao gồm lãi suất liên ngân hàng và cơ số tiền tệ.
Với mục tiêu hoạt động là lãi suất liên ngân hàng, NHTƯ sẽ kiểm soát lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng. NHTƯ thông qua các công cụ CSTT có thể kiểm soát trực tiếp lãi suất này. Khi NHTƯ chọn mục tiêu hoạt động là lãi suất liên ngân hàng, nghĩa là những thay đổi tạm thời của cung và cầu tiền cơ bản chỉ nhằm đạt được mục tiêu là đảm bảo lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng không rời xa lãi suất mục tiêu. Việc kiểm soát lãi suất liên ngân hàng hiệu quả hơn trong điều kiện thị trường tiền tệ phát triển, thị trường liên ngân hàng có tính thanh khoản cao và hiệu quả, hệ thống ngân hàng thương mại có tính cạnh tranh, NHTƯ có sự tín nhiệm cao với các thành viên thị trường.
Với mục tiêu hoạt động là cơ số tiền tệ, NHTƯ sẽ kiểm soát cơ số tiền tệ hoặc kiểm soát trực tiếp các thành phần cấu thành của cơ số tiền tệ như dự trữ quốc tế ròng, dự trữ của các ngân hàng thương mại, hoặc tài sản có trong nước ròng trên bảng cân đối tài sản của NHTƯ. Khi NHTƯ chọn mục tiêu hoạt động là cơ số tiền tệ, NHTƯ không điều tiết thay đổi cầu tiền cơ bản và cũng bỏ qua những tác động của lãi suất mà chỉ quan tâm đến cơ số tiền tệ có phù hợp với mục tiêu hay không. Mục tiêu cơ số tiền tệ có thể áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng thấp, nhất là trong điều kiện môi trường lạm phát cao.
Trong các mục tiêu trên thì mục tiêu hoạt động là dễ dàng để kiểm soát, nhưng xa mục tiêu cuối cùng trong khi mục tiêu trung gian khó kiểm soát nhưng gần mục tiêu cuối cùng. Các mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động đóng vai trò trung gian trong cơ chế truyền dẫn giữa các công cụ và mục tiêu của CSTT theo thứ tự từ mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian đến mục tiêu cuối cùng của CSTT.
Có thể bạn quan tâm!
- Nêu Rõ Lý Do Nghiên Cứu, Vấn Đề Nghiên Cứu, Mục Tiêu, Đối Tượng, Phạm Vi Nghiên Cứu, Phương Pháp, Dữ Liệu, Những Đóng Góp Chính Và Cấu Trúc
- Các Thành Phần Của Dòng Chảy Tài Chính Quốc Tế
- Hội nhập tài chính và chính sách tiền tệ tại Việt Nam 1674801841 - 6
- Hội nhập tài chính và chính sách tiền tệ tại Việt Nam 1674801841 - 8
- Tác Động Của Hội Nhập Tài Chính Đến Độc Lập Chính Sách Tiền Tệ
- Hội nhập tài chính và chính sách tiền tệ tại Việt Nam 1674801841 - 10
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
Công cụ
Nghiệp vụ thị trường mở
Chính sách chiết khấu
Quy định dự trữ bắt buộc
Mục tiêu hoạt động
Cơ số tiền tệ, Lãi suất liên ngân hàng
Mục tiêu trung gian
Tổng mức cung tiền
Lãi suất thị trường (ngắn hạn, dài hạn)
Mục tiêu
Ổn định giá
Công ăn việc làm cao
Tăng trưởng kinh tế
Ổn định thị trường tài chính
Hình 2.1 Chiến lược của ngân hàng trung ương
Nguồn: Mishkin (2009)
2.2.3 Công cụ của chính sách tiền tệ
2.2.3.1 Công cụ truyền thống
Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng và có tính ưu việt hơn so với các công cụ khác của CSTT. NHTƯ thông qua hoạt động mua vào và bán ra giấy tờ có giá để tác động trực tiếp đến cơ số tiền tệ, đây là nguồn chính gây nên những thay đổi trong tổng mức cung tiền. Hoạt động mua vào các giấy tờ có giá của NHTƯ trên thị trường mở làm tăng cơ số tiền tệ, do đó làm tăng cung tiền. Hoạt động bán ra giấy tờ có giá trên thị trường mở làm thu hẹp cơ số tiền tệ, làm giảm lượng cung tiền. Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở, bao gồm nghiệp vụ thị trường mở chủ động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở bị động được áp dụng để bù đắp cho những thay đổi do các yếu tố khác ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở có những thuận lợi so với các công cụ khác trước hết bởi nó giúp NHTƯ kiểm soát được quy mô điều chỉnh theo mong muốn, sự chủ động này không có được khi sử dụng nghiệp vụ chiết khấu. Thứ hai, nghiệp vụ thị trường mở linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất kỳ quy mô nào. Khi muốn có thay đổi nhỏ về dự trữ hoặc cơ số tiền tệ, sử dụng công cụ này NHTƯ có thể đạt được mục tiêu bằng cách thực hiện giao dịch mua hoặc bán chứng khoán với quy mô nhỏ. Ngược lại, nếu thay đổi mong muốn về dự trữ hoặc cơ số tiền tệ là rất lớn, công cụ này vẫn đủ mạnh để thực hiện công việc thông qua việc mua hoặc bán chứng khoán với quy mô rất lớn. Thứ ba, nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo ngược. Nếu một sai lầm được thực hiện khi tiến hành giao dịch trên thị trường mở, NHTƯ có thể ngay lập tức đảo ngược nó. Nếu nhận thấy lãi suất quá thấp do đã thực hiện quá nhiều giao dịch mua trên thị trường mở, NHTƯ có thể ngay lập tức điều chỉnh bằng cách tiến hành giao dịch bán lại trên thị trường mở. Thứ tư, nghiệp vụ thị trường mở có thể được thực hiện nhanh chóng, không phụ thuộc vào hạn chế hay sự trì hoãn về thủ tục hành chính (Mishkin 2009).
Chính sách chiết khấu (tái cấp vốn)
Một trong những chức năng của NHTƯ là chức năng ngân hàng của các ngân hàng. Khi thực hiện chức năng này, NHTƯ có thể cho các ngân hàng thương mại vay dưới hai hình thức chủ yếu là cho vay thanh toán và cho vay tái cấp vốn. Trong đó, cho vay tái cấp vốn là một công cụ của CSTT, thường gọi là chính sách chiết khấu. Với chính sách này, NHTƯ có thể cho vay tái cấp vốn cho ngân hàng thương mại bằng cách chiết khấu, tái chiết khấu các loại giấy tờ có giá, cho vay cầm cố các giấy tờ có giá. Chính sách chiết khấu là công cụ quan trọng của NHTƯ với mục đích cung cấp vốn cho nền kinh tế và thực hiện mục tiêu của CSTT. Đây là công cụ có ý nghĩa quan trọng và ra đời sớm nhất mà NHTƯ các nước sử dụng để điều hoà tổng mức cung tiền (Lê Thị Tuyết Hoa & Đặng Văn Dân 2017). Đây thực chất là biện pháp cho vay của NHTƯ đối với các ngân hàng thương mại và thông qua đó NHTƯ khống chế và kiểm soát khối lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
NHTƯ có thể sử dụng chính sách chiết khấu để đạt được mục tiêu CSTT thông qua quy định về loại giấy tờ có giá được áp dụng, chất lượng của những giấy tờ có giá đó. Ngoài ra, NHTƯ có thể quy định về loại giấy tờ có giá thuộc ngành nào, lĩnh vực nào được chiết khấu theo chính sách phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Hoặc NHTƯ có thể quy định hạn mức cho các ngân hàng vay theo hình thức này, qua đó hạn chế khả năng vay vốn của ngân hàng thương mại từ NHTƯ, từ đó tác động vào khả năng thanh toán, mức vốn khả dụng của các ngân hàng (Lê Thị Tuyết Hoa & Đặng Văn Dân 2017). Một biện pháp cũng được sử dụng phổ biến với chính sách chiết khấu là NHTƯ sẽ quy định lãi suất chiết khấu. Đây là cách quản lý được sử dụng phổ biến ở nhiều nước khi sử dụng công cụ chiết khấu. Khi lãi suất chiết khấu tăng sẽ làm cho việc nhận tín dụng từ NHTƯ trở nên đắt đỏ, khối lượng tái cấp vốn giảm xuống và vì thế giảm cung ứng tiền vào lưu thông. Ngược lại, khi thực hiện CSTT mở rộng, NHTƯ sẽ giảm lãi suất chiết khấu để khuyến khích ngân hàng thương mại vay nhiều hơn.
Chính sách chiết khấu có hạn chế là quyết định có vay chiết khấu hay không tuỳ thuộc vào ngân hàng có nhu cầu nên NHTƯ không chủ động kiểm soát được. Khi NHTƯ hạ lãi suất chiết khấu để khuyến khích ngân hàng thương mại nhưng nếu ngân hàng thương mại không có nhu cầu thì quy mô vay vốn qua hình thức này cũng không tăng lên, CSTT mở rộng cũng không đạt mục tiêu mong muốn. Ngược lại, khi tăng lãi suất chiết khấu với mục tiêu hạn chế ngân hàng vay vốn nhưng nếu ngân hàng thương mại đang có nhu cầu vốn vẫn chấp nhận chi phí phải trả cao như vậy và cũng không theo mục tiêu thu hẹp tiền tệ của NHTƯ. Trong trường hợp các ngân hàng đủ khả năng thanh toán, lãi suất thị trường tiền tệ thấp hơn lãi suất tái cấp vốn thì việc tăng lãi suất này không còn ý nghĩa mà còn làm mất đi khả năng kiểm soát của nó đối với lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm phản ánh mức dự trữ mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải thực hiện tính trên tổng số dư tiền gửi các loại (Lê Thị Tuyết Hoa
& Đặng Văn Dân 2017). Ngân hàng thương mại có thể dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc dưới dạng tiền gửi tại NHTƯ. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được sử dụng không chỉ nhằm mục đích đảm bảo khả năng thanh toán cho các ngân hàng mà còn là công cụ để điều tiết tiền tệ trong nền kinh tế của các NHTƯ. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ có thể tác động vào nguồn dự trữ, vốn khả dụng của các ngân hàng để làm thay đổi tiềm năng tín dụng của những ngân hàng này. Tuy nhiên vẫn có một số ý kiến trái chiều về vấn đề này. Thứ nhất, các ngân hàng vẫn có thể nắm giữ dự trữ thậm chí khi không có yêu cầu bắt buộc, như vậy dự trữ bắt buộc không có tác động lắm đến vấn đề kiểm soát của NHTƯ. Thứ hai, sự góp phần của dự trữ bắt buộc trong việc cải thiện sự ổn định của số nhân tiền chưa có những bằng chứng đáng kể (Lê Thị Tuyết Hoa & Đăng Văn Dân 2017).
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được xác định tuỳ vào loại tiền gửi, tỷ lệ này thường cao hơn với loại tiền gửi không kỳ hạn vì tính ổn định thấp, mức độ rủi ro về thanh khoản cao hơn các loại tiền gửi khác. Tiền gửi có kỳ hạn càng dài mức độ ổn định càng cao và rủi ro thanh khoản càng thấp, vì thế tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng sẽ thấp hơn. Ngoài ra, có thể xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy mô, quy mô khoản tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dụng càng cao. Bên cạnh đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn có thể quy định theo đối tượng là ngân hàng trong nước và ngân hàng ngoài nước.
Tài sản dùng để duy trì dự trữ bắt buộc phải là những tài sản có tính thanh khoản cao như tiền mặt tại quỹ, tiền gửi duy trì trên tài khoản tại NHTƯ, tín phiếu chính phủ kí gửi tại NHTƯ. Việc dùng tiền mặt tại quỹ để để duy trì dự trữ bắt buộc có ưu điểm là giúp các ngân hàng thương mại giảm bớt chi phí giao dịch tiền mặt (do phải gửi tiền vào NHTƯ), sử dụng tiền dự trữ linh hoạt. Tuy nhiên với hình thức này các ngân hàng dễ trốn tránh trách nhiệm dự trữ bắt buộc nếu NHTƯ không có biện pháp quản lý chặt chẽ, do đó ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng thương mại và làm triệt tiêu tác động của CSTT. Nếu duy trì dự trữ bắt buộc bằng tín phiếu có ưu điểm là thúc đẩy thị trường trái phiếu chính phủ phát triển, đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng do tính thanh khoản cao và rủi ro thấp nhưng nhược điểm là hạn chế tác dụng
điều tiết M2. Hiện nay việc duy trì dự trữ bắt buộc bằng tiền gửi tại NHTƯ là hình thức được đa số các quốc gia sử dụng do tính ưu việt của nó.
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng của mỗi ngân hàng. Với tổng số dư tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng cao thì phần chênh lệch còn lại – vốn khả dụng của ngân hàng càng thấp và ngược lại. Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng tín dụng của ngân hàng, còn thực sự nó có làm cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không phụ thuộc vào thái độ sẵn sàng cấp tín dụng của ngân hàng và nhu cầu tín dụng của các thành phần không phải ngân hàng. Đối với lãi suất, dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách. Thứ nhất, tỷ lệ dự trữ tăng làm giảm tiềm năng tín dụng của ngân hàng nên lãi suất sẽ tăng lên và ngược lại. Thứ hai, hiệu quả của tác động càng tăng khi phần dự trữ bắt buộc của các ngân hàng ở NHTƯ không được tính lãi vì nó có xu hướng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Điểm thuận lợi chính của dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng và có tác dụng mạnh mẽ đến cung ứng tiền tệ, nó tác động không chỉ đến quy mô, khối lượng tín dụng mà cả đối với lãi suất tín dụng (Lê Thị Tuyết Hoa & Đặng Văn Dân 2017). Mức độ tác động mạnh của dự trữ bắt buộc mặt khác lại gây khó khăn khi CSTT chỉ cần những điều chỉnh với quy mô nhỏ trong cung tiền khi sử dụng công cụ này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây khó khăn thanh khoản tức thời cho một số ngân hàng có nguồn dự trữ bị giới hạn, các yêu cầu dự trữ liên tục thay đổi cũng sẽ tạo ra sự không chắc chắn cho các ngân hàng và khiến việc quản lý thanh khoản của họ trở nên khó khăn hơn. Dự trữ bắt buộc hiện nay không còn là công cụ của CSTT ở một số NHTƯ hoặc cũng không được áp dụng đối với tất cả các ngân hàng (Mishkin 2009).
Một số công cụ khác
Hạn mức tín dụng
NHTƯ còn có thể sử dụng quy định giới hạn khối lượng tín dụng mà các ngân hàng thương mại cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Với biện pháp
này, NHTƯ trực tiếp can thiệp vào hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Biện pháp này có ý nghĩa nhất định trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao và được sử dụng khá phổ biến ở những nước với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Tuy nhiên, biện pháp này có một số hạn chế. Thứ nhất, do mỗi ngân hàng được phân bổ một hạn mức tín dụng tối đa nên nó có xu hướng làm giảm tính cạnh tranh giữa các ngân hàng. Thứ hai, trong giới hạn tín dụng đó, quy trình cho vay thường bị chi phối theo những tiêu chuẩn hành chính chủ quan làm cho những dự án mới gặp khó khăn khi tìm nguồn vốn. Thứ ba, vì việc cho vay chỉ nằm trong giới hạn cho phép nên nó tạo điều kiện cho sự ra đời của các trung gian tài chính nằm ngoài hệ thống ngân hàng, nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTƯ, do đó mặc dù chỉ tiêu kiểm soát tín dụng dường như được thực hiện nhưng trên thực tế thì không như vậy. Ngày nay, công cụ hạn mức tín dụng được sử dụng rất hạn chế ở một số nước đang phát triển, cách sử dụng cũng thay đổi theo hướng linh hoạt, hạn mức tín dụng không còn là một con số cụ thể nữa mà được tính theo tỷ lệ trên tổng số dư tiền gửi hoặc tính trên số lần so với vồn tự có của các ngân hàng (Lê Thị Tuyết Hoa & Đặng Văn Dân 2017).
Quy định lãi suất
Việc điều khiển lãi suất tín dụng cho nền kinh tế bằng các biện pháp hành chính đối với các ngân hàng, cùng với khung lãi suất đã được ấn định cũng được coi là một công cụ của CSTT ở một số nước. Bằng cách sử dụng công cụ này, NHTƯ trực tiếp can thiệp vào thị trường tiền tệ trong nền kinh tế, quyết định chi phí phải trả của các doanh nghiệp, cá nhân khi họ muốn nhận vốn vay từ ngân hàng. Phương pháp quản lý lãi suất đã thay đổi từ quy định lãi suất cứng nhắc sang quy định trần lãi suất cho vay, sàn lãi suất tiền gửi hay dùng một mức lãi suất duy nhất để điều tiết thị trường tiền tệ là lãi suất chiết khấu.
Tóm lại, NHTƯ có nhiều công cụ để thực thi CSTT, mỗi công cụ có những đặc điểm riêng, phù hợp với các điều kiện kinh tế khác nhau. Theo xu hướng phát triển, việc vận dụng các công cụ cần thích ứng với yêu cầu của cơ chế quản lý mới, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Vì vậy, những công cụ mềm dẻo, có tính linh hoạt cao được sử
dụng phổ biến như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái chiết khấu. Dự trữ bắt buộc cũng là một trong những công cụ vẫn được áp dụng nhưng khá thận trọng, công cụ hạn mức tín dụng hay quy định lãi suất ngày càng tỏ ra không còn phù hợp (Lê Thị Tuyết Hoa & Đặng Văn Dân 2017).
2.2.3.2 Công cụ phi truyền thống
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008 – 2009), nhiều NHTƯ phải đối mặt với tình trạng khu vực tài chính suy yếu và có vẻ nhanh chóng đi ngược lại giới hạn mà họ có thể đạt được bằng các công cụ truyền thống. Ban đầu, các điều kiện tài chính trong nước không còn phản ứng nhiều với việc cắt giảm lãi suất chính sách. Sau đó, việc nới lỏng chính sách như truyền thống gặp phải những ràng buộc của giới hạn dưới bằng không. Trong bối cảnh đó, NHTƯ một số quốc gia dần dần đưa ra một loạt các biện pháp chính sách để đối phó được gọi chung là các công cụ CSTT phi truyền thống. Các biện pháp này có thể đã từng được sử dụng trước đó nhưng đã được sử dụng với quy mô lớn chưa từng có hoặc với các điều kiện áp dụng chưa từng có tiền lệ tạo nên đặc điểm mới của các công cụ CSTT được gọi tên là phi truyền thống này.
Không giống như CSTT truyền thống, các biện pháp phi truyền thống nhắm vào mục tiêu khác mục tiêu lãi suất ngắn hạn. Một số được thiết kế để ảnh hưởng đến chênh lệch về kỳ hạn trong khi một số khác hướng vào việc tác động lên thanh khoản và chênh lệch tín dụng. Một số công cụ nhằm khôi phục điều kiện thanh khoản và định giá tài sản trong hệ thống tài chính như một phương tiện hỗ trợ cơ chế truyền dẫn CSTT (Bindseil 2016). Với những công cụ này, các NHTƯ đã trở thành trung gian cho một loạt các hoạt động tài chính. Họ đã tham gia để lấp đầy khoảng trống do tình trạng suy thoái của khu vực tư nhân, do đó cũng giúp tăng động lực cho khu vực này. Các công cụ CSTT phi truyền thống được phân thành bốn loại, bao gồm chính sách lãi suất âm, hoạt động cho vay mở rộng, chương trình mua tài sản và định hướng kỳ vọng của thị trường. Các công cụ này về cơ bản không khác với những gì NHTƯ đã sử dụng trong quá khứ. Điều tạo nên sự khác biệt cho giai đoạn này là phạm vi sử