Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo - 2

sau khi Luật Trợ giúp pháp lý có hiệu lực vào ngày 01/01/2007; năng lực thực hiện trợ giúp pháp lý của Trợ giúp viên và cộng tác viên trợ giúp pháp lý còn hạn chế trong một số lĩnh vực pháp luật phức tạp và có nhiều thay đổi như pháp luật đất đai, chế độ chính sách,...

Xuất phát từ những kết quả đạt được của hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo, để khắc phục những hạn chế, bất cập trên và nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân, tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận với dịch vụ mang tính chất ưu đãi của nhà nước dành cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn khác thì việc nghiên cứu đề tài "Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo" là cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn để thực hiện có hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo giai đoạn tiếp theo.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ mới của ngành Tư pháp thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho những đối tượng yếu thế trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan về trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đó là: Luận án Tiến sĩ: "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới", của Tạ Thị Minh Lý; Luận văn Thạc sĩ: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam", của Vũ Hồng Tuyến; Luận văn thạc sĩ: "Hoàn thiện

các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", của Đỗ Xuân Lân; Luận văn thạc sĩ: "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý", của Phan Thị Thu Hà; Luận văn thạc sĩ: "Trợ giúp pháp lý ở cơ sở", của tác giả Đặng Thị Loan; đề tài cấp Bộ: "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay"... Tuy nhiên, về vấn đề hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, với đề tài "Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo", tác giả Luận văn sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần tìm ra giải pháp khoa học thúc đẩy các hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo thời gian tới để người nghèo, người dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn khác được trợ giúp pháp lý khi có yêu cầu.

3. Mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn

Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện chính sách này có hiệu quả trong thời gian tới, góp phần xóa nghèo về pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.

Thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ:

- Làm rõ cơ sở lý luận, chính trị pháp lý và cơ sở thực tiễn thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

- Phân tích, đánh giá thực trạng triển khai các hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo để thấy được những mặt ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.

- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo trong thời gian tới.

Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo - 2

4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và pháp luật của Nhà nước về xóa đói giảm nghèo; quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

- Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, so sánh, đối chiếu. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn, kết quả khảo sát để hoàn chỉnh luận văn.

5. Ý nghĩa của luận văn

- Hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, luận văn sẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu về cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo.

- Luận văn góp phần chứng minh quá trình phát triển đúng đắn các quy định pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy hoạt động này. Đồng thời, có sự đánh giá sâu sắc, sát thực tình hình thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo, nêu và phân tích yêu cầu về mặt pháp lý và thực tiễn trong thời gian tới đối với hoạt động này.

- Luận văn này đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần thực hiện có hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo giai đoạn tiếp theo.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Tổng quan về hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo.

Chương 2: Thực trạng thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo.

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình giảm nghèo trong thời gian tới.

Chương 1‌

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO


1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý

Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20, xuất phát từ tiếng Anh là "legal aid". Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì "legal aid" có nghĩa là "trợ cấp pháp lý" [33]. Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì "legal aid" trong cụm từ "legal aid schem" có nghĩa là "bảo trợ tư pháp". Ngoài ra, trong một số tài liệu khác còn gọi là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp".

Theo Đại Từ điển Tiếng Việt - Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 1998 thì "trợ giúp" là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến". Trong Từ điển Từ và ngữ Việt Nam của Giáo sư Nguyễn Lân, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 giải thích: trợ giúp là góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau về thuật ngữ này nhưng cụm từ "trợ giúp" có nghĩa chung nhất, bao hàm nội dung sự "giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ".

Ở Việt Nam, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các tài liệu từ năm 1995, khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Đến năm 1996, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối

tượng chính sách. Năm 2006, Luật Trợ giúp pháp lý đã có quy định chính thức về khái niệm trợ giúp pháp lý:

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [42, Điều 3].

1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý

- Trợ giúp pháp lý là một loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, có đầy đủ những đặc trưng của dịch vụ công như: được xác định là một trong những chức năng xã hội của Nhà nước và là trách nhiệm của Nhà nước; đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý là những người yếu thế, không có đủ điều kiện tiếp cận với các loại dịch vụ pháp lý có thu, cần có sự trợ giúp của Nhà nước; các chi phí cho hoạt động trợ giúp pháp lý chủ yếu do ngân sách Nhà nước bảo đảm.

- Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý, do những người có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện trên cơ sở pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp luật của người nghèo và đối tượng chính sách thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại… Trợ giúp pháp lý được coi là một loại hình dịch vụ pháp lý nói chung bởi hình thức và phương thức thực hiện tương tự như dịch vụ pháp lý nói chung. Điểm khác biệt ở đây là trợ giúp pháp lý có đối tượng, phạm vi, lĩnh vực trợ giúp, tổ chức, người thực hiện hẹp hơn; trợ giúp pháp lý của Nhà nước được thực hiện theo một trình tự, thủ tục khác so với trình tự, thủ tục thực hiện dịch vụ pháp lý chung do tổ chức và cá nhân khác thực hiện. Người thụ hưởng trợ giúp pháp lý không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào.

- Trợ giúp pháp lý còn là một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là những người có hoàn cảnh đặc biệt cần phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ. Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu thế, góp phần tạo sự công bằng trong xã hội;

- Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý, thể hiện qua phương thức hoạt động và mục đích hướng tới của nó. Tính chất pháp lý của hoạt động trợ giúp pháp lý thể hiện ở chỗ, trợ giúp pháp lý là một trong các biện pháp thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống bởi Nhà nước phải có trách nhiệm tạo ra các cơ chế để giúp người dân biết các quy định pháp luật để thực hiện, sử dụng, tuân thủ trong cuộc sống để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt, khi Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật và giải quyết các vấn đề phát sinh hàng ngày trên cơ sở pháp luật thì yêu cầu cần phải giúp cho người dân hiểu biết pháp luật trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

- Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: Trợ giúp pháp lý được xác định là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, thuộc chức năng xã hội của Nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Thông qua đó, góp phần thiết lập sự ổn định chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân vào chế độ. Trợ giúp pháp lý là một trong những phương thức có hiệu quả để Nhà nước giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, giữ đoàn kết cộng đồng, bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội.

1.3. Người được trợ giúp pháp lý

Theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý, người được trợ giúp pháp lý bao gồm:

- Người nghèo là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật. Chuẩn nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng giai đoạn cho

phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Chuẩn nghèo hiện nay được thực hiện theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015.

- Người có công với cách mạng bao gồm: Người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng; Cha, mẹ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ chưa đủ 18 tuổi; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ.

Đây là những người đã có nhiều cống hiến về sức lực, tài năng, trí tuệ và cả tính mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế trong thời chiến cũng như trong thời bình, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật. Phần lớn những đối tượng này gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống do bị ảnh hưởng của thương tật, suy giảm sức khỏe và khả năng lao động (thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh), mất chỗ dựa chính trong gia đình (thân nhân liệt sĩ),… Chỉ một bộ phận nhỏ trong số họ có thu nhập ổn định. Với loại đối tượng này, chính sách trợ giúp pháp lý của Nhà nước chủ yếu thể hiện sự ưu tiên, ưu đãi, sự biết ơn đối với những cống hiến của họ chứ không căn cứ vào điều kiện thu nhập.

- Người già cô đơn không nơi nương tựa: là những người từ 60 tuổi trở lên, sống một mình và không có người chăm sóc, phụng dưỡng.

- Người tàn tật không nơi nương tựa: là những người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/12/2022