Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển - 13


Nếu không bị cấm, các chuyên gia và các nhà tạo lập thị trường có thể sử dụng các thông tin này (bao gồm các thông tin nội bộ) để thực hiện kinh doanh cho chính họ nhằm thu lợi nhuận. Đó cũng chính là lý do tại sao những đối tượng này bị kiểm soát chặt chẽ. Một yêu cầu khác nữa là họ phải công bằng với tất cả các nhà đầu tư, không được phép thiên vị bất cứ bên nào. Ngày nay, trên thế giới có nhiều loại thị trường mới ra đời như thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường tương lai, thị trường quyền chọn... cùng với sự hỗ trợ của các phương thức giao dịch đa dạng đã không ngừng thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thị trường chứng khoán, góp phần vào sự công bằng, hiệu quả và trật tự đối với các giao dịch tại các thị trường này... Vì vậy vai trò của các chuyên gia và các nhà tạo lập thị trường là luôn được khẳng định. Trong tương lai không xa, để thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung đi vào vận hành ổn định nên cần sớm tính đến việc xây dựng một đội ngũ các chuyên gia và nhà tạo lập thị trường đủ năng lực tác nghiệp trên thị trường. Cần hình thành các nhà tạo lập thị trường và các đại lý. Đây sẽ là những nhà phân phối trái phiếu thường xuyên, có nghiệp vụ và có thể đưa trái phiếu giao dịch trên thị trường.

Ngoài ra để thúc đẩy các nhà tạo lập thị trường, Việt Nam cần phát triển các công cụ phái sinh liên quan đến trái phiếu để giúp các nhà tạo lập thị trường có thêm nhiều công cụ để đảm nhiệm tốt vai trò của mình. Đầu tư chứng khoán nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng luôn chứa đựng rủi ro, việc bảo hiểm cho các khoản rủi ro trong quá trình đầu tư là điều cần thiết. Mặt khác, khi TTTP phát triển đến giai đoạn cao tất yếu dẫn đến việc hình thành các sản phẩm phái sinh liên quan đến trái phiếu nhằm đa dạng hoá và đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư từ khả năng sinh lợi đến mục tiêu giảm thiểu, hoán đổi rủi ro. Hiện nay, thị trường giao dịch trái phiếu ở Việt Nam khá đơn điệu, dừng lại ở nghiệp vụ mua bán trái phiếu giao ngay, làm hạn chế mục đích đầu tư và tính linh hoạt của thị trường. Cần phát triển các sản phẩm


chứng khoán phái sinh liên quan đến trái phiếu như: quyền chọn mua, bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản phẩm từ chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ... Hệ thống ngân hàng thương mại phải đóng vai trò chủ đạo trong quá trình cung cấp các sản phẩm phái sinh cho thị trường chứng khoán. Ngoài ra, nghiệp vụ mua lại (repo) trái phiếu tạo tính thanh khoản rất cao cho thị trường trái phiếu.

Các công cụ phái sinh nói chung được đánh giá là rất hữu hiệu trong phòng ngừa rủi ro, giúp nhà đầu tư tự tin hơn khi tham gia thị trường. Tuy nhiên, các công cụ này cũng có tính hai mặt, để áp dụng vào thị trường chứng khoán Việt Nam cần xây dựng khuôn khổ pháp luật cho hoạt động này, các cơ quan quản lý có thể đưa ra các quy định về số lượng quyền chọn tối đa của các nhà đầu tư để hạn chế tình trạng lũng đoạn thị trường. Bên cạnh đó, cần thực hiện đồng bộ với việc phát triển quy mô thị trường, hệ thống giao dịch, hệ thống tài chính ngân hàng, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán của công chúng đầu tư và tăng cường khả năng giám sát thị trường của cơ quan quản lý.

3.3.4. Xây dựng và phát triển hệ thống ĐMTN ở Việt Nam

Tính minh bạch về thông tin là một trong những điều kiện để phát triển thị trường vốn nói chung và TTTP nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, dịch vụ đánh giá tín nhiệm với các thông tin chính xác, kịp thời sẽ cung cấp thêm cho các cơ quan giám sát thị trường chứng khoán và các cơ quan quản lý tài chính công cụ để quản lý và giám sát; cung cấp thông tin để cho phép các nhà đầu tư kiểm soát và hạn chế các rủi ro trong kinh doanh; đồng thời đối với nhà phát hành nó được dùng như một chiến lược huy động vốn. Do đó, việc xây dựng hệ thống ĐMTN ở Việt Nam hiện nay đã trở nên cấp thiết.

Để tổ chức ĐMTN tồn tại và phát triển trong giai đoạn thị trường trái phiếu Việt Nam còn non trẻ cần chú trọng các vấn đề sau:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Nhanh chóng xây dựng khung pháp lý về hoạt động ĐMTN, có một khung pháp lý sẽ tạo điều kiện cho các công ty định mức tín nhiệm trong nước ra đời, vừa tạo điều kiện để thu hút sự tham gia của các công ty, tổ chức uy tín trên thế giới.

- ĐMTN được nhắc đến trong Nghị định 52/NĐ-CP nhưng chỉ dừng lại ở mức độ mở ngoặc “nếu có”. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho sự hình thành và hoạt động hiệu quả của tổ chức định mức tín nhiệm, trước tiên phải mang tính chất tiền đề, là những cơ sở pháp lý cơ bản nhất để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực ĐMTN, đồng thời định ra hướng đi đúng cho cá nhân, tổ chức liên quan trong khuôn khổ mà pháp luật quy định.

Hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam và giải pháp phát triển - 13

- Luật chứng khoán cần bổ sung một phần quy định về những vấn đề chung nhất trong hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm như: khái niệm, địa vị pháp lý, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tổ chức ĐMTN...

- Bên cạnh những vấn đề chung, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt động ĐMTN, Chính phủ cần ban hành các Nghị định để chi tiết hóa và hướng dẫn thi hành các điều khoản này. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, hoạt động ĐMTN là lĩnh vực hoàn toàn mới mẽ; hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện, ta chưa lường trước được hết những phát sinh và tính phức tạp của hoạt động này. Việc sửa đổi bổ sung để hoàn thiện trong quá trình điều hành là điều không thể tránh khỏi, nếu ở mức Nghị định vừa đảm bảo được hiệu lực pháp lý vừa có thể sửa đổi bổ sung kịp thời. Do đó trong giai đoạn đầu Chính phủ ban hành ở mức Nghị định là hợp lý. Cùng với sự phát triển của thị trường vốn và trong quá trình điều hành hoạt động ĐMTN đã rút tỉa được kinh nghiệm nếu xét thấy cần thiết thì ban hành luật hoạt động ĐMTN.

- Hoạt động ĐMTN là một bộ phận của TTCK, nó liên quan chặt chẽ với hoạt động của toàn TTCK và ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, do đó cần phải có sự đồng bộ hóa các quy định có liên


quan đến hoạt động ĐMTN với các quy định khác có liên quan. Cần giám sát và có qui định xử phạt đối với các hành vi sai trái khi tổ chức ĐMTN đưa ra các kết quả xếp hạng tín nhiệm không trung thực.

Tiêu chuẩn hoá các thông tin tài chính của các doanh nghiệp. Một tổ chức ĐMTN phụ thuộc vào sự sẵn có các thông tin chính xác tin cậy về các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Mặt khác, các cơ quản lý không chỉ dừng lại ở việc khuyến khích xếp hạng tín nhiệm mà phải thông qua việc ban hành các quy định về ĐMTN bắt buộc, yêu cầu các doanh nghiệp niêm yết trên TTCK phải thực hiện ĐMTN, nhất là các doanh nghiệp phát hành trái phiếu dù chào bán ra công chúng hay chào bán riêng lẻ. Minh bạch hoá thông tin vừa tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư vừa tạo uy tín cho bản thân các doanh nghiệp phát hành. Một trở ngại cho sự phát triển của các tổ chức ĐMTN là có quá ít công cụ nợ để định giá, do đó cần mở rộng quy mô cung chứng khoán đặc biệt là trái phiếu doanh nghiệp.

Cần nâng cao nhận thức của nhà phát hành và nhà đầu tư về ĐMTN. Để làm được điều này, cần phải làm cho các nhà đầu tư, các tổ phát hành trái phiếu và các tổ chức trung gian thị trường hiểu được những lợi ích mà ĐMTN mang lại. Bên cạnh đó, các tổ chức ĐMTN phải tạo được sự tin cậy, tín nhiệm từ phía những người ủy thác và công chúng đầu tư, đảm bảo nguyên tắc hoạt động tính tin cậy, tính độc lập, tính khách quan và chuyên nghiệp.

Cuối cùng, để hệ thống ĐMTN thành công còn phụ thuộc vào khuôn khổ chính sách dẫn dắt, có thể thực hiện các bước đi sau:

- Hợp tác và tiếp thu kinh nghiệm, chuyên môn từ các tổ chức ĐMTN nổi tiếng trên thế giới. Vai trò của các tổ chức ĐMTN quốc tế, ngay cả trong giai đoạn đầu, cần được xem xét một cách phù hợp. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các tổ chức ĐMTN quốc tế sẽ gia tăng sự lựa chọn và chất lượng của các dịch vụ cung cấp cho các tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Áp lực cạnh tranh từ các tổ chức ĐMTN quốc tế cũng sẽ buộc các tổ chức ĐMTN trong nước


tăng cường chất lượng và tính cạnh tranh về dịch vụ của họ. Tuy nhiên, với mục đích phát triển các tổ chức ĐMTN trong nước, trong giai đoạn đầu nên hạn chế sự tham gia của các tổ chức ĐMTN nước ngoài, chỉ dừng ở mức hỗ trợ thu hút vốn nước ngoài. Việc tham gia vào các mảng thị trường khác chỉ nên cho phép khi đã qua một số giai đoạn nhất định, với điều kiện lộ trình đó phải được minh bạch và có độ tin cậy cao.

- Trong điều kiện hiện tại của VN, có một số lý do không ủng hộ việc cho phép các công ty định mức tín nhiệm tư nhân hoạt động. Thứ nhất, các tổ chức tư nhân này thường có quy mô nhỏ. Thứ hai, có rủi ro là một số tổ chức phát hành có thể thành lập các công ty định mức tín nhiệm của chính mình để đạt được những kết quả sai lệch về tình hình tín dụng của họ. Mặc dù vậy, các tổ chức ĐMTN nhà nước cũng vẫn có những điểm yếu, vấn đề phức tạp nhất có thể xảy ra là sự can thiệp của Chính phủ đối với kết quả định mức tín nhiệm. Để đảm bảo chất lượng định mức tín nhiệm, việc thực thi công tác kiểm soát, giám sát và phân định trách nhiệm rõ ràng phải được chú trọng. Ngoài ra, việc lựa chọn quyền sở hữu đối với các tổ chức ĐMTN đòi hỏi phải xem xét kỹ tới quy mô và tính chuyên nghiệp cần thiết... Trong giai đoạn đầu có thể thành lập một tổ chức ĐMTN thuộc sở hữu nhà nước và sau đó có thể cho phép chuyển thành sở hữu tư nhân.

3.3.5. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và nhà đầu tư về thị trường trái phiếu

Con người là một nhân tố đóng vai trò quan trọng trong mọi hoạt động. Doanh nghiệp và công chúng đầu tư là bộ phận không thể thiếu và góp phần quan trọng tạo nên sự phát triển của thị trường trái phiếu. Để phát triển thị trường chứng khoán nói chung và TTTP nói riêng Nhà nước cần chú trọng hơn nữa trong công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức về chứng khoán cho các doanh nghiệp và công chúng. Trong thời gian qua, tuy các doanh nghiệp và công chúng có quan tâm tìm hiểu về thị trường chứng khoán nhưng hầu


như chỉ tập trung vào cổ phiếu. Thông qua các phương tiện đại chúng, hệ thống thông tin trực tuyến internet đã góp phần tuyên truyền cho doanh nghiệp và công chúng một sự hiểu biết toàn diện về thị trường chứng khoán trong đó có thị trường trái phiếu. Điều này đã giúp các doanh nghiệp nhận thức được vai trò, lợi ích của việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu; nâng cao nhận thức trong công chúng về vai trò, rủi ro và tính hữu ích của việc đầu tư trái phiếu.

Thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng là lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi phải có kiến thức, trình độ chuyên môn cao, nhưng hiện nay còn quá mới mẻ ở Việt Nam. Vì vậy, việc đào tạo phải gắn kết với hoạt động mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn, xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị trường. Hoạt động đào tạo chứng chỉ hành nghề chứng khoán ở Việt Nam thời gian qua chủ yếu vẫn do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước quản lý và đào tạo nên công tác đào tạo thời gian qua thực sự gặp nhiều khó khăn và không thể đáp ứng nhu cầu đào tạo của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Trong năm 2007, đã mở rộng 5 tổ chức khác được phép liên kết đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chỉ nên quản lý về mặt chuyên môn, chương trình giảng dạy, các tổ chức khác có đủ điều kiện về giảng dạy sẽ đảm nhiệm công tác giảng dạy nhằm tránh độc quyền mà vẫn đảm bảo chất lượng đào tạo.

3.3.6. Hoàn thiện hệ thống pháp lý liên quan đến hoạt động của thị trường trái phiếu

Để thị trường trái phiếu vận hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp lý hoàn thiện mang lại một sân chơi công bằng, luật sở hữu rõ ràng và thông tin minh bạch cũng như một cơ quan quản lý thị trường có năng lực.


Hiện nay, hoạt động của thị trường trái phiếu được điều chỉnh bởi các văn bản pháp quy: Nghị định 141/2003/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP), Nghị định 52/2006/NĐ-CP (quy định việc phát hành TPDN), Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 (quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán) và một số các văn bản pháp quy khác có liên quan. Bên cạnh việc đã thông qua Luật Chứng khoán, Quốc hội cần từng bước hoàn thiện Luật Chứng khoán cho phù hợp với tình hình đặc thù của TTCK sơ khai đang từng bước phát triển và hội nhập, đồng thời phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật để giảm bớt sự chồng chéo và mâu thuẫn.

Các quy định về đấu thầu TPCP và việc công khai hóa thông tin của Chính phủ về TPCP cần được thể hiện trong Luật Chứng khoán, không nên quy định riêng lẻ trong các văn bản dưới Luật như hiện nay. Chính phủ cần đưa ra các quy định cụ thể để ràng buộc trách nhiệm của các thành viên tham gia đấu thầu và bảo lãnh phát hành, cũng như xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động công bố thông tin, nền tảng là Luật Chứng khoán và Luật Kế toán. Vấn đề tranh chấp, kiện tụng trong giao dịch là điều khó có thể tránh khỏi trong hoạt động của các thị trường còn non trẻ như ở Việt Nam, vì thế Chính phủ cần đưa ra các quy định pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh khi có tranh chấp xảy ra.

Hiện nay, hoạt động của thị trường OTC không trái với pháp luật hiện hành, tuy nhiên Luật Chứng khoán Việt Nam vẫn chưa có những điều khoản về thị trường OTC. Các đối tượng tham gia thị trường đang đứng trước nguy cơ phải gánh chịu rủi ro nếu không được bảo vệ bởi bất kỳ khung pháp lý nào, do đó trong các văn bản pháp lý liên quan đến hoat động của thị trường chứng khoán cần có các quy định rõ ràng để bảo vệ các đối tượng tham gia thị trường. Cụ thể trong Luật Chứng khoán cần quy định rõ đối tượng được phép


thành lập, thủ tục thành lập, cơ cấu điều hành Trung tâm OTC, quy định đối với trường hợp giải thể trung tâm OTC…

Bộ Tài chính cần ban hành các quy định để tạo cơ sở pháp lý cho các công ty chứng khoán tái cơ cấu theo hướng tăng quy mô vốn, mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ và đưa ra những cơ chế hỗ trợ khuyến khích các quỹ đầu tư chứng khoán trong và ngoài nước tham gia thị trường.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần thực hiện cải cách sâu rộng các quy định pháp lý về quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm thực hiện quản lý theo chuẩn mực để sớm hình thành cơ chế quản lý bình đẳng; nâng cao hiệu quả giám sát từ phía Nhà nước.

Kết luận chương 3


Chương 3 trình bày một số đề xuất nhằm phát triển TTTP Việt Nam trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Tuy nhiên việc phát triển thị trường trái phiếu cần đặt trong mối tương quan với toàn bộ hệ thống tài chính. Ngoài các biện pháp vĩ mô từ phía Nhà nước như ổn định nền kinh tế, khuyến khích tiết kiệm đầu tư, hoàn thiện hệ thống pháp lý, thì việc đa dạng hoá các loại trái phiếu phát hành nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường, phát triển đội ngũ nhà tạo lập thị trường cũng như các công ty đánh giá mức tín nhiệm là yêu cầu rất cần thiết để TTTP hoạt động hiệu quả hơn. Để thị trường trái phiếu phát huy tốt vai trò của mình, Chính phủ cần có những giải pháp mang tính đồng bộ, cụ thể và hiệu quả từ nhiều phía: Chính phủ, Chính quyền địa phương, các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, đồng thời xây dựng lộ trình triển khai thực hiện phù hợp với từng giai đoạn phát triển và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư tiếp cận với thị trường trái phiếu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2022