Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Quy Trình Kiểm Toán Khoản Mục Nợ Phải Thu Khách Hàng

- Về phương pháp chọn mẫu, chương trình kiểm toán mẫu xác định chọn mẫu theo phương pháp thống kê và phi thống kê. Công ty SVC chọn chủ yếu theo phương pháp phi thống kê, tùy theo xét đoán của KTV. Tức là, nếu như nghiệp vụ phát sinh ít thì KTV sẽ kiểm tra 100% đối với khoản mục đó, ngược lại, nếu phát sinh nhiều thì dựa vào xét đoán chuyên môn mà KTV chọn mẫu ngẫu nhiên để kiểm tra.

- Chọn mẫu chứng kiến kiểm kê, chương trình kiểm toán mẫu thì kiểm kê toàn bộ các chứng từ liên quan đến khoản mục nợ phải thu khách hàng, tuy nhiên do hạn chế về thời gian, nên Công ty SVC chỉ chọn ra những chứng từ mà theo xét đoán chuyên môn và thái độ hoài nghi nghề nghiệp của KTV là có chứa đựng sai sót.

- Một thủ tục luôn được KTV tại công ty SVC thực hiện là phân tích đối ứng bên nợ, bên có tài khoản cần phân tích, cụ thể được thể hiện trong bài là khoản mục nợ phải thu khách hàng. KTV có thể phát hiện ra những trường hợp bất thường khi có đối ứng với những tài khoản mà theo tính chất thì rất ít xảy ra, thậm chí là không thể.

Giai đoạn hoàn thành kiểm toán


- Việc lưu trữ hồ sơ khá khoa học, các hồ sơ kiểm toán trong công ty được đánh dấu, ký hiệu cho mỗi khoản mục đại diện cho mỗi phần hành. Tạo điều kiện thuận lợi cho người xem hồ sơ và sự kiểm tra của cấp trên.

- Trên thực tế, do hạn chế về thời gian, các TNKS được thực hiện song song với các TNCB, các khoản mục kiểm toán được thực hiện xen kẻ và cùng lúc. Điều này rất thuận lợi trong việc kiểm tra, đối chiếu các tài liệu liên quan, KTV có thể cùng lúc kiểm tra được việc đánh số thứ tự liên tục, việc ký duyệt trên các chứng từ, sự khớp đúng số liệu với các chứng từ liên quan hoặc kiểm tra tính bất thường của nghiệp vụ phát sinh,….Như vậy, KTV vừa thực hiện được TNKS vừa thực hiện được các TNCB, giúp tiết kiệm thời gian và công sức. Tuy nhiên cũng có mặt trái của nó là không sử dụng được kết quả các TNKS để có thể điều chỉnh cỡ mẫu các TNCB cho phù hợp và cần thiết.


CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH KIỂM TOÁN KHOẢN MỤC NỢ PHẢI THU KHÁCH HÀNG

TẠI CÔNG TY SVC

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.


4.1 ĐÁNH GIÁ

Hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục nợ phải thu khách hàng tại Công ty TNHH Kiểm toán Sao Việt – Chi nhánh Cần Thơ - 12


4.1.1 Ưu điểm


Trong quá trình kiểm toán, không chỉ đối với khoản mục Nợ phải thu khách hàng mà đối với toàn bộ BCTC, công ty SVC đã áp dụng nghiêm túc các quy định của hệ thống chuẩn mực kế toán và kiểm toán Việt Nam hiện hành.

Công ty tổ chức huấn luyện nghiệp vụ hàng năm cho nhân viên, kết hợp cập nhật những thông tư, nghị định mới. Vì vậy mà mỗi nhân viên của công ty SVC luôn được trang bị kiến thức rất tốt.

Công việc kiểm toán thường bố trí những nhân viên có nhiều kinh nghiệm đã từng kiểm toán khách hàng năm trước kiểm toán tiếp năm nay nhưng không phân công nhân viên kiểm toán cùng một khách hàng quá nhiều năm .

Quy trình kiểm toán được chia ra nhiều giai đoạn cụ thể. Mỗi giai đoạn lại được quy định rõ ràng, cụ thể những công việc phải làm, mục tiêu cần đạt được ở mỗi giai đoạn. Điều này giúp cho kiểm toán viên thực hiện công việc dễ dàng, nhanh chóng hơn và tránh được việc bỏ sót công việc hay mất nhiều thời gian cho những công việc không liên quan. Nhờ vậy kết quả công việc được nâng cao. Cụ thể như sau:

a. Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán


- Trước khi xuống đơn vị kiểm toán thì kiểm toán viên cũng yêu cầu khách hàng gửi những sổ sách, ví dụ như: Bảng cân đối số phát sinh, Bảng cân

đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Bản thuyết minh báo cáo tài chính, Sổ nhật ký chung, Sổ chi tiết của tất cả các tài khoản…để kiểm toán viên có thể chú ý vào trọng tâm của đơn vị, điều này tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí trong cuộc kiểm toán.

- Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, Công ty SVC đã thực hiện được phân tích sơ bộ đối với các khoản mục chính trên BCTC, cụ thể là tìm hiểu kỹ các khoản mục nợ phải thu khách hàng. Mặt khác, KTV có thể dự đoán được khu vực có rủi ro cao có thể xảy ra trong nội bộ công ty khách hàng. Từ đó đánh giá được mức độ phức tạp của cuộc kiểm toán.

- Công ty có định hướng trưởng nhóm kiểm toán phải chịu trách nhiệm rà soát lại toàn bộ các công việc mà KTV khác và trợ lý kiểm toán đã thực hiện, xem xét vừa tổng quát vừa cụ thể tất cả các khoản mục và độ tin cậy của các kết luận đưa ra.

b. Giai đoạn thực hiện kiểm toán


- Công ty SVC đã thiết lập một chương trình kiểm toán mẫu, căn cứ dựa vào chương trình kiểm toán của Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) với các thủ tục phân tích và thử nghiệm chi tiết cần thiết, tuân thủ và kết hợp chặt chẽ với các chế độ, chuẩn mực kế toán, kiểm toán hiện hành giúp cho KTV dễ dàng thực hiện và không bỏ sót bất kỳ thử nghiệm chi tiết nào.

- Công ty luôn cập nhật nhanh chóng các văn bản pháp luật mới để kịp thời bổ sung, điều chỉnh chương trình kiểm toán phù hợp với quy định của BTC và chính sách của nhà nước góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ của công ty kiểm toán.

- Thủ tục phân tích cụ thể của các phần hành được ghi chép lưu trữ rõ ràng, cẩn thận và hệ thống trong hồ sơ giúp khâu soát xét cuối cùng sau kiểm toán được thực hiện rõ ràng và nhanh chóng, đưa ra báo cáo kiểm toán đáng tin cậy giúp người sử dụng nhận định chính xác và dự đoán được tình hình tương lai của công ty khách hàng trong bối cảnh chung của nền kinh tế nhiều biến động hiện nay.

- Thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản được thực hiện song song để điều chỉnh cỡ mẫu hợp lý nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí kiểm toán.

- KTV đã xác định được các mục tiêu kiểm toán, từ đó đưa ra những thủ tục kiểm toán thích hợp. Các thử nghiệm chi tiết đối với khoản mục Nợ phải thu khách hàng được KTV lựa chọn và thực hiện khá đầy đủ và thận trọng. Cụ thể như kiểm tra các khách hàng có số dư nợ lớn, các nghiệp vụ bất thường, kiểm tra việc chia cắt niên độ, trình bày và công bố các khoản phải thu trên BCTC.

- Quy trình kiểm toán khoản mục Nợ phải thu khách hàng được thiết kế khá hoàn thiện bao gồm khá đầy đủ các thử nghiệm chi tiết quan trọng như: kiểm tra các nghiệp vụ bán hàng, lập bảng số dư chi tiết phân tích theo tuổi nợ, gửi thư xác nhận công nợ,....Khi thực hiện kiểm toán, KTV đã thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để đánh giá lại rủi ro kiểm soát, đây là cơ sở để chứng minh hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có thật sự hữu hiệu hay yếu kém để từ đó thu hẹp hay mở rộng các thử nghiệm cơ bản, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro kiểm toán, tiết kiệm được chi phí và thời gian kiểm toán, đồng thời nó cũng giúp cho hệ thống kế toán của đơn vị khách hàng được kiểm toán chặt chẽ hơn.

- Đối với khoản Dự phòng phải thu khó đòi, KTV đi vào tìm hiểu bảng phân tích số dư theo tuổi nợ, xem xét và phỏng vấn về khả năng thu hồi nợ, thực hiện lại việc trích lập dự phòng xem đơn vị có trích lập đúng hay không.

- Khi xác nhận các khoản Nợ phải thu khách hàng, kiểm toán viên không gửi thư xác nhận cho tất cả các bên liên quan mà dựa vào kinh nghiệm kiểm toán, chỉ gửi đến những khách hàng có khả năng xảy ra sai sót cao. Đối với những khách hàng còn lại, kiểm toán viên chỉ yêu cầu đơn vị cung cấp biên bản đối chiếu công nợ. Việc làm này giúp cho kiểm toán viên tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí.

- Ứng dụng phần mềm excel trong việc kiểm tra số dư, số phát sinh cũng như chạy các tài khoản đối ứng của từng tài khoản. Từ đó, phát hiện được những nghiệp vụ bất thường khi tiến hành phân tích.

- Khi thực hiện kiểm toán giữa các kiểm toán viên luôn có sự bổ sung, đối chiếu lẫn nhau giữa kiểm toán khoản phải thu khách hàng với Doanh thu và các tài khoản khác có liên quan. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện được trình bày trong giấy tờ làm việc và lưu trữ đầy đủ trong hồ sơ.

c. Đối với giai đoạn hoàn thành kiểm toán

Các giấy tờ làm việc và bằng chứng kiểm toán đều được trưởng nhóm kiểm toán cũng như Ban Giám đốc rà soát, kiểm tra lại và phê duyệt trước khi phát hành bản dự thảo báo cáo kiểm toán. Hồ sơ làm việc được tổ chức một cách khoa học, kết hợp việc sử dụng các ký hiệu tham chiếu rõ ràng và dễ hiểu đã giúp Công ty SVC kiểm soát hồ sơ, kiểm tra việc thực hiện kiểm toán dễ dàng. Vì vậy, giúp công ty hạn chế được rủi ro kiểm toán và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với sản phẩm của mình cũng như đối với khách hàng, người sử dụng báo cáo tài chính.

- Mỗi khoản mục sẽ được lưu với những ký hiệu khác nhau. Khoản mục Nợ phải thu khách hàng được ký hiệu lưu là “D310” và các bằng chứng kiểm toán thu thập được đều được đánh tham chiếu rõ ràng, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho người đọc dễ nghiên cứu, không bị nhầm lẫn với các khoản mục khác. Đồng thời, Giám đốc dễ dàng kiểm tra, xem xét lại từng khoản mục trước khi ký Báo cáo kiểm toán chính thức và làm cơ sở để giải quyết những vấn đề tranh chấp sau khi phát hành Báo cáo kiểm toán (nếu có).Việc tổ chức, sắp xếp và lưu trữ tài liệu vào hồ sơ kiểm toán một cách có trình tự và khoa học tạo thuận lợi cho việc kiểm tra và tìm kiếm khi cần sử dụng lại.

- Các chỉ tiêu phân tích cần chú ý đính kèm với báo cáo kiểm toán được Công ty SVC tính toán và lưu ý người đọc BCTC khá cụ thể.

4.1.2 Nhược điểm


Bên cạnh những ưu điểm, thì Quy trình kiểm toán khoản mục Nợ phải thu khách hàng tại Công ty TNHH Kiểm Toán SVC cũng còn tồn tại những nhược điểm sau:

a. Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán


- Do bị giới hạn về thời gian và chi phí của cuộc kiểm toán nên quá trình tìm hiểu thông tin khách hàng của công ty SVC còn nhiều hạn chế, chưa mở rộng tìm hiểu ở các bên thứ ba như nhà cung cấp hay khách hàng của Công ty TNHH Hải Sản ABC. Do đó, KTV chưa có nhận xét đầy đủ về tình hình hoạt động của Công ty TNHH Hải Sản ABC.

- Kiểm toán viên tìm hiểu về hệ thống KSNB của đơn vị khách hàng bằng cách phỏng vấn, trao đổi với nhà quản lý, kế toán trưởng và các nhân viên, từ đó đưa ra nhận xét sơ bộ về KSNB tại đơn vị. KTV ít sử dụng bảng tường thuật hoặc lưu đồ lưu vào hồ sơ kiểm toán nên có khả năng sẽ bỏ sót

một số nội dung cần thiết và có thể gây tốn thời gian cho những lần kiểm toán sau, khi kiểm toán viên phải tìm hiểu lại từ đầu. Kiểm toán viên chưa quan tâm đầy đủ đến việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ, các bộ phận hợp thành hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng mà chỉ quan tâm chủ yếu đến hệ thống kế toán (chủ yếu là: sổ sách kế toán, chứng từ tổng hợp, Bảng cân đối kế toán, hệ thống tài khoản kế toán…..), do đó KTV chưa có đầy đủ cơ sở để đánh giá hoàn toàn chính xác về tính hữu hiệu và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng.

- Việc thiết kế bảng câu hỏi để tìm hiểu HTKSNB của công ty SVC còn chưa linh hoạt và phù hợp với từng lĩnh vực khác nhau. Công ty SVC chưa có quy định cụ thể việc sử dụng các công cụ để tìm hiểu và đánh giá HTKSNB của đơn vị được kiểm toán. Do vậy, trước khi thực hiện kiểm toán, KTV chưa kết hợp được với hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ tại đơn vị để có thể điều chỉnh các thử nghiệm chi tiết và phạm vi kiểm tra cho phù hợp. Điều này làm cho quá trình thu thập bằng chứng phải thực hiện nhiều thủ tục hơn, gây mất nhiều thời gian và công sức. Nguyên nhân chủ yếu là do các khách hàng của công ty phần lớn là những công ty vừa và nhỏ nên HTKSNB ít được chú trọng hay do KTV cũng chưa thật sự đánh giá cao hiệu quả của HTKSNB tại đơn vị và hầu hết các đơn vị dè dặt tiết lộ thông tin, phối hợp chưa thật tốt với kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán tại đơn vị khách hàng.

- Việc xác định mức trọng yếu phụ thuộc rất nhiều vào sự xét đoán nghề nghiệp của KTV mà không có bất kỳ quy định cụ thể nào.

b. Giai đoạn thực hiện kiểm toán


- Việc thực hiện các thủ tục phân tích được sử dụng một cách đơn giản, thông tin phân tích chỉ là các thông tin tài chính, so sánh dữ liệu sẽ được kiểm toán kỳ này và số liệu kỳ trước. Kiểm toán viên không có đủ thông tin để đưa ra nhận xét, chỉ dựa trên cơ sở so sánh kỳ này với kỳ trước thấy có sự biến động thì tiến hành điều tra và giải thích nguyên nhân.

Phương pháp chọn mẫu, xác định mức trọng yếu, đánh giá rủi ro kiểm toán, thu thập bằng chứng chủ yếu phụ thuộc vào kiến thức, trình độ và xét đoán nghề nghiệp của KTV của công ty kiểm toán. Việc làm này mang đầy tính chủ quan, làm tăng khả năng phạm phải những sai sót trong quá trình kiểm toán.

Việc chọn mẫu nghiệp vụ để kiểm tra chứng từ gốc được thực hiện chủ yếu theo phương pháp lựa chọn các phần tử đặc biệt. Phương pháp chọn mẫu để kiểm tra chi tiết chứng từ của SVC còn mang tính chủ quan và ước đoán nghề nghiệp của KTV khá nhiều, thông thường KTV sẽ chọn số lượng mẫu thỏa mãn lớn hơn một số tiền nào đó đối với khoản mục có nghiệp vụ phát sinh nhiều, và chọn kiểm tra 100% mẫu đối với khoản mục có số nghiệp vụ phát sinh ít. Nhưng chọn cỡ mẫu bao nhiêu và số tiền bao nhiêu là lớn thì vẫn chưa được tài liệu hóa cụ thể do đặc điểm kinh doanh của mỗi công ty là khác nhau.

Các KTV của công ty SVC thường thực hiện thử nghiệm kiểm soát song song với các thử nghiệm cơ bản nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ phù hợp với các công ty có quy mô nhỏ với nghiệp vụ phát sinh tương đối ít, khi kiểm toán ở các đơn vị có quy mô tương đối lớn thì việc áp dụng thử nghiệm đôi này sẽ không còn hữu hiệu, chính xác.

- Việc thực hiện các thử nghiệm cơ bản được áp dụng chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy mà những khoản mục liên quan đến tính chuyên môn của doanh nghiệp sẽ không được phản ánh cụ thể, có thể gây trở ngại cho kiểm toán viên khi tiến hành thực hiện kiểm toán đến khoản mục đó. Đồng thời, có thể gây khó khăn và hạn chế đối với việc thực hiện các thử nghiệm để thu thập bằng chứng kiểm toán.

c. Giai đoạn hoàn thành kiểm toán


- Sau khi hoàn thành công việc kiểm toán viên chính là người kiểm tra lại kết quả thực hiện của các trợ lý kiểm toán, do cùng lúc phải kiểm tra nhiều khoản mục trong một thời gian ngắn nên sẽ ảnh hưởng phần nào đến chất lượng cuộc kiểm toán.

- KTV chưa quan tâm nhiều đến các sự kiện sau ngày khóa sổ. Sự phân tích về giả định hoạt động liên tục của khách hàng không được trình bày cụ thể ra giấy tờ. Do đó sẽ không tạo được bằng chứng kiểm toán đối với việc kiểm tra này.

4.1.3 Nguyên nhân của những hạn chế trên


Việc phân công nhân lực cho cuộc kiểm toán thường không ổn định là do công ty khách hàng không hoàn thành BCTC kịp thời gian kiểm toán theo kế

hoạch Công ty SVC đã xếp. Điều này làm cho thời gian kiểm toán bị trùng và phải điều các KTV khác thực hiện.

- Trong mùa kiểm toán, thường các KTV phải chịu áp lực với công việc khá lớn bao gồm áp lực từ phía khách hàng, từ phía Công ty kiểm toán do phải lập báo cáo trước tháng 03 năm sau, điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc kiểm toán và các báo cáo kiểm toán.

- Do hạn chế về mặt thời gian tham gia kiểm toán nhưng số liệu mà khách hàng cung cấp là số liệu cả năm, do đó KTV chỉ có thể chọn mẫu, không thể kiểm tra toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến các khoản mục được.

- Các thủ tục kiểm toán phần lớn chỉ có tác dụng định hướng và xác định rủi ro để từ đó KTV có thể thực hiện các thủ tục khác một cách dễ dàng và hiệu quả.

- Việc so sánh số liệu chỉ dừng lại ở hai kỳ kế toán mà chưa so sánh nhiều kỳ được là do còn giới hạn về thời gian và chi phí kiểm toán trong việc tìm kiếm số liệu, thông tin cần thiết để thực hiện thủ tục phân tích này.

- Đối với số liệu cùng ngành thì gặp khá nhiều khó khăn khi thu thập. ở Việt Nam việc cung cấp các số liệu chung của ngành chưa được cụ thể hóa, chưa có nhiều số liệu về thống kê để so sánh, thêm vào đó độ tin cậy của các số liệu này chưa cao, chỉ ở mức chung chung nên việc phân tích số liệu ngành đôi lúc không mang lại hiệu quả cao.

- Việc so sánh số liệu thực tế với kế hoạch thường không được thực hiện, một số trường hợp thực hiện nhưng không mang lại kết quả thiết thực. Nguyên nhân do một số công ty không lập kế hoạch kinh doanh hoặc nếu lập thì lập theo cảm tính của công ty nên KTV không tin tưởng thủ tục này mang lại hiệu quả.

- Bản thân ngành kiểm toán chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây nên việc chuẩn bị các văn bản pháp lý hay những quy định ràng buộc đối với ngành chưa được hoàn thiện.

Ngày đăng: 07/11/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*