Một Số Nét Chính Có Thể Học Hỏi Trong Kinh Nghiệm Các Nước Để Hoàn Thiện Pháp Luật Việt Nam Về Bán Hàng Đa Cấp

3.1.2. Một số nét chính có thể học hỏi trong kinh nghiệm các nước để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Bán hàng đa cấp

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của Malaysia, New Zealand và Canada chúng ta có thể rút ra được một số điểm chính Việt Nam có thể học hỏi như sau:

Thứ nhất, các quốc gia đều thừa nhận đối với phương thức BHĐC và đưa ra các quy định để quản lý và kiểm soát hoạt động động này. Việc thừa nhận tuy ở các mức độ khác nhau tại mỗi quốc gia nhưng tựu chung lại các quốc gia đều cho thấy quan điểm chung là BHĐC cũng là một phương thức bán hàng như các phương thức khác nên nó cũng cần phải được thừa nhận và tạo điều kiện công bằng cho sự tồn tại của nó. Còn công tác kiểm soát và điều chỉnh nó như thế nào sẽ phụ thuộc vào chính sách và cách thức tạo điều kiện cho sự tồn tại của nó.

Thứ hai, về cách tiếp cận, các quốc gia đều tiếp cận đối với phương thức BHĐC theo hướng siết chặt quản lý bằng các biện pháp cụ thể:

Đặt ra những quy định pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện và chặt chẽ về nội dung quản lý;

Đặt ra các chế tài đủ mạnh để kiểm soát, có thể sử dụng cả chế tài hình sự nếu thấy cần thiết để đảm bảo trật tự quản lý.

Thứ ba, kinh nghiệm trong cách thức xây dựng quy định pháp luật điều chỉnh cũng như trong cách thức quản lý hoạt động BHĐC:

Thẩm quyền quản lý đối với hoạt động BHĐC thường được trao cho các cơ quan quản lý về công thương của các nước, cụ thể hơn nữa là các cơ quan quản lý về cạnh tranh như Cục Cạnh tranh (Canada), Ủy ban Thương Mại (New Zealand). Đây là một điểm hợp lí vì pháp luật về BHĐC là một bộ phận quan trọng của pháp luật cạnh tranh.

Cách thức định nghĩa tương tự nhau đối với hoạt động BHTT: Các quốc gia đều cho rằng hoạt động này là phương thức bán lẻ không tiến hành tại cơ sở bản lẻ cố định của nhà cung cấp mà có thể tiến hành theo cách thức gặp gỡ trực tiếp với người mua tại nơi ở, nơi làm việc, qua thư điện tử, qua điện thoại;

Trong quá trình quản lý đều có sự tham gia của các hiệp hội với tư cách là tổ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

chức đại diện của các doanh nghiệp BHĐC tham mưu giúp cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý hiệu quả hoạt động BHĐC;

Các quốc gia đều thừa nhận cả hàng hóa và dịch vụ đều là đối tượng của phương thức BHĐC dù mức độ thừa nhận có sự khác nhau giữa các quốc gia khác nhau. Nó cho thấy định hướng lập pháp của các nước ở mức độ tương đối cao nên điều chính tương đối toàn diện.

Hoàn thiện pháp luật về Bán hàng đa cấp tại Việt Nam theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới - 11

Hầu hết các quốc gia đều đặt ra yêu cầu về giấy phép để chủ thể có quyền tham gia BHĐC cho người mua (trừ New Zeland). Đây cũng là một điều hợp lí vì tính chất phức tạp của hoạt động BHĐC, nhà làm luật cần phải siết chặt quản lý để luôn giữ cho hoạt động BHĐC của các doanh nghiệp ở trong trật tự.

Mô hình bán hàng kim tự tháp đều là mô hình BHĐC bị cấm ở các quốc gia. Các trường hợp bị coi là bán hàng theo mô hình kim tự tháp được các quốc gia ghi nhận rất nhiều không chỉ dừng lại ở hành vi điển hình là lôi kéo người tham gia vào hệ thống để được hưởng thù lao;

Các quốc gia đều xây dựng quy định về hợp đồng giữa người BHĐC và người mua, trong đó, một số điều khoản tương tự nhau như: tên gọi của hợp đồng cơ bản được sử dụng là hợp đồng Bán hàng trực tiếp, các hợp đồng hầu hết đều bị yêu cầu bắt buộc phải được thể hiện dưới hình thức văn bản; người mua có quyền chấm dứt hợp đồng trong một khoảng thời gian nhất định tính từ lúc ký (hoặc hình thức khác tương tự) hợp đồng mà không cần phải nêu lý do;

BHTT không áp dụng đối với một số loại hình kinh doanh đặc thù như: kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản. Các loại hình kinh doanh này được điều chỉnh theo cơ chế riêng và theo những văn bản quy phạm pháp luật cũng riêng.

Những quy định của các nước đã được nghiên cứu bước đầu làm tiền đề cho tác giả soi vào và học tập trên cơ sở đánh giá tính phù hợp với Việt Nam để hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về BHĐC. Kinh nghiệm của các nước rất đáng quý, rất đáng học hỏi nhưng khi học hỏi cần phải bám sát các nguyên tắc học hỏi đã được đưa ra để tránh rơi vào tình trạng giáo điều.

3.2. Các giải pháp cụ thể để hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về Bán hàng đa cấp

Qua việc nghiên cứu quy định pháp luật về BHĐC của các nước, kết hợp với việc tìm hiểu về thực trạng pháp luật Việt Nam, tác giả xin đưa ra các giải pháp cụ thể để hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về BHĐC như sau:

3.2.1. Tiếp tục thừa nhận phương thức Bán hàng đa cấp và siết chặt quản lý

BHĐC tự bản thân nó vẫn tồn tại và ảnh hưởng nhiều mặt đến đời sống xã hội. Đây là một thực tế. Do vậy, chúng ta không có cách nào khác là phải thừa nhận nó và tìm ra những giải pháp tốt nhất để kiểm soát sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, phát huy được những mặt tích cực, hạn chế những khuyết điểm của nó. Nếu không chúng ta cũng sẽ phải gánh chịu những hậu quả khôn lường từ những mặt trái do nó gây ra.

Nhà làm luật tại các quốc gia trong đối tượng nghiên cứu đều thừa nhận hoạt động BHTT và đưa ra các quy định pháp luật để siết chặt quản lý nó cũng như có những chế tài để đặt nó trong vòng kiểm soát. Họ có thời gian đủ dài để nhận thức được rằng không thể dùng quyền lực nhà nước có thể gạt nó ra khỏi thị trường bởi nó là một trong những cách thức phân phối sản phẩm trên thị trường.

3.2.2. Điều chỉnh tên gọi của phương thức

Trên thế giới có rất ít quốc gia gọi phương thức này là BHĐC. Tại Việt Nam, tên gọi BHĐC được dùng từ khi đặt ra những quy phạm pháp luật ban đầu điều chỉnh hoạt động này (Luật Cạnh tranh năm 2004). Tên gọi này vừa làm hạn chế phạm vi điều chỉnh khi chỉ quy định duy nhất một mô hình bán hàng mà người tham gia được chia làm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau và họ liên kết với nhau bằng mã số. Tên gọi này cũng đã gây ra nhiều hệ lụy và ảnh hưởng đến tâm lí của người tiêu dùng Việt Nam khi nó bị gắn với mô hình bán hàng trong đó, việc lôi kéo, tuyển dụng người tham gia không gắn với việc bán hàng để được hưởng hoa hồng. Do vậy, tác giả kiến nghị đổi tên và theo tác giả đây là một việc làm hết sức cần kíp.

Tên gọi được sử dụng, Việt Nam có thể học hỏi theo kinh nghiệm của một số nước gọi là Bán hàng trực tiếp như tại Malaysia, New Zealand, Canada sử dụng

cũng như Liên đoàn các hiệp hội Bán hàng trực tiếp thế giới đang sử dụng.

3.2.3. Tội phạm hóa hành vi Bán hàng đa cấp vi phạm pháp luật

Hầu hết các nước trong phạm vi nghiên cứu (trừ New Zealand) đều đã tội phạm hóa những hành vi vi phạm quy định pháp luật về BHĐC. Đây là một việc làm cần thiết và cần được đem ra bàn thảo trong thời gian sớm nhất có thể. BHĐC đã có ảnh hưởng và tác động tiêu cực quá lớn đối với cộng đồng, nó len lỏi vào khắp các vùng miền trong cả nước từ thành thị đến nông thôn, ảnh hưởng đặc biệt lớn đối với người vùng xâu, vùng xa, những vùng nhận thức của mọi người còn rất mơ hồ về phương thức này. Những vụ việc vi phạm của muaban24, Agel, Colony Invest… đã làm cho người dân vốn đã rất hoang mang, thiếu thông tin về hình thức này nay thêm mất đi lòng tin về năng lực quản lý của cơ quan nhà nước đối với hoạt động BHĐC. Điển hình là vụ việc công ty Agel bỏ thị trường Việt Nam đã gây nên một làn sóng phản đối cực kỳ lớn từ người tham gia vì làm cho rất nhiều người tham gia bị thiệt hại. Ước tính, có hàng chục nghìn người mất tiền tỉ trong vụ việc này mà họ không biết phải trông cậy vào đâu để có thể thu hồi được khoản đã đầu tư khi Công ty mẹ tại Hoa Kỳ chối bỏ trách nhiệm và công ty con tại Việt Nam đã không còn tồn tại [79].

Trong khi đó, tại Việt Nam hiện nay việc xử lý hình sự chỉ được đặt ở giai đoạn sau khi hậu quả cho xã hội của những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động BHĐC đã ở mức độ khó kiểm soát và chủ yếu là truy tố theo các tội liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nó không giúp phòng ngừa sớm vi phạm cũng như giảm thiểu tác động đối với cộng đồng.

Cách thức ghi nhận trong Bộ luật hình sự Việt Nam đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHĐC có thể là ghi nhận thành một điều khoản với tội vi phạm các quy định về quản lý hoạt động BHĐC sau đó trong nội dung điều khoản này nêu các trường hợp bị coi là vi phạm hoặc thiết kế thành nhiều điều khoản khác nhau ứng với từng hành vi vi phạm khác nhau.

Về mức phạt: Hình phạt chính có thể bao gồm các hình thức phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù giam có thời hạn; hình phạt bổ sung: Phạt tiền (nếu không

phải là hình phạt chính), cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Tịch thu tài sản.

3.2.4. Thừa nhận một cách chính thức Bán hàng đa cấp đối với dịch vụ

Xuất phát từ nhu cầu nội tại, các loại hình KDĐC dưới hình thức dịch vụ cũng dần hình thành và gây ra những ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Pháp luật cần có những sự thừa nhận đối với đối tượng này một cách đầy đủ để có những sự điều chỉnh cho phù hợp tránh để cho chúng tự do hoạt động ngoài vòng pháp luật gây ra các hậu quả tiêu cực cho xã hội.

Các quốc gia trong phạm vi nghiên cứu đều thừa nhận hành vi BHĐC trong lĩnh vực dịch vụ. Đây đều là các quốc gia có quá trình điều chỉnh pháp luật đối với phương thức KDĐC trong một khoảng thời gian tương đối dài dài và đạt được những thành tựu tương đối lớn.

Vấn đề được đặt ra là những loại hình dịch vụ nào được tiến hành theo phương thức BHĐC? Một khi đã được thừa nhận, nhà làm luật cũng cần tạo môi trường bình đẳng của việc kinh doanh đối tượng là dịch vụ và việc kinh doanh đối tượng là hàng hóa. Theo quan điểm của tác giả, những loại hình dịch vụ không cấm kinh doanh thì cũng ko nên bị hạn chế kinh doanh theo phương thức BHĐC. Tất nhiên, đối với các loại hình dịch vụ kinh doanh có điều kiện, để có thể tham gia vào, nhà cung cấp cũng phải đảm bảo các điều kiện kinh doanh theo quy định.

3.2.5. Điều chỉnh các quy định về Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động Bán hàng đa cấp

3.2.5.1. Điều chỉnh cơ quan cấp và bỏ quy định về thời hạn hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động Bán hàng đa cấp

Quy định của pháp luật của Việt Nam hiện hành cũng tương tự như các nước được tác giả lựa chọn đem ra khảo cứu (Malaysia, New Zealand, Canada) khi quy định cơ quan chịu trách nhiệm quản lý về Công thương là cơ quan quản lý hoạt động BHĐC. Tuy nhiên, liên quan đến việc cấp GĐK, tác giả kiến nghị sửa đổi theo hướng: giữ nguyên quy định của Nghị định 110, tức là quy định cơ quan cấp GĐK sẽ là cơ quan cấp địa phương (thay vì quy định là BCT như hiện tại) bởi một

số lí do sau:

Chưa có lập luận và dẫn chứng thuyết phục để chứng minh được BCT có đủ năng lực và thẩm quyền để đánh giá tác động của hoạt động BHĐC đến thực tế của các tỉnh, thành phố mà doanh nghiệp đang hoạt động. Mặc dù điểm đ Khoản 2 Điều 32 Nghị định 42 quy định BCT có trách nhiệm “Hướng dẫn, phối hợp với các SCT và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động BHĐC”. Song, BCT không thể trực tiếp thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra các doanh nghiệp BHĐC mà phải là chủ thể trực tiếp quản lý trong từng địa phương, đó là SCT các tỉnh, thành phố mà doanh nghiệp đó đang hoạt động. Với tư cách là cơ quan quản lý cấp trung ương, BCT khó có thể là chủ thể thực hiện trách nhiệm giám sát một hoặc một số doanh nghiệp cụ thể nhất định. Khi không thể đánh giá tác động của một tình huống cụ thể trong hoạt động BHĐC đến đời sống thực tế của cộng đồng của một số tỉnh, thành phố và cũng không chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp hoạt động đa cấp của doanh nghiệp thì BCT không nên có quyền hạn trong việc thẩm tra hiệu quả và cấp GCN của một hồ sơ đăng ký hoạt động BHĐC.

Như đã trình bày ở trên, cơ chế tiền kiểm còn có tác dụng xử lý khi có vi phạm pháp luật bằng việc cưỡng chế chấm dứt hoạt động thông qua thủ tục thu hồi GĐK. Về thẩm quyền, Nghị định 42 đã tiếp cận đúng với nguyên tắc trong pháp luật quản lý Nhà nước là Cơ quan cấp GĐK thu hồi GĐK. Vấn đề đặt ra là, BCT cấp GĐK, chỉ cơ quan này có thẩm quyền thu hồi GĐK đã cấp cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có vi phạm, SCT của các tỉnh có quyền xử lý nhưng không thể là chủ thể ra quyết định thu hồi ngay cả khi pháp luật quy định biện pháp xử lý là thu hồi GĐK. Trong trường hợp có sự bất đồng quan điểm giữa SCT có thẩm quyền xử lý và BCT thì việc áp dụng biện pháp thu hồi vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của BCT, từ đó có e ngại về việc đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.

Những lập luận trên cho thấy giải pháp quy định thẩm quyền cho BCT chưa phải là giải pháp căn cơ, hiệu quả để giải quyết vấn đề yếu kém đã nêu ra. Vì vậy, theo tác giả, nếu còn giữ lại thủ tục cấp GĐK thì nên giữ nguyên thẩm quyền, giải pháp để giải quyết sự thiếu thống nhất phải là những hướng dẫn chi tiết hơn về

những điều kiện cấp GĐK, nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác thẩm định hồ sơ chứ không phải là bổ sung thẩm quyền cho BCT.

Đồng thời, tác giả kiến nghị bỏ quy định về thời hạn cấp GĐK để đảm bảo cho việc hoạt động ổn định lâu dài của các doanh nghiệp BHĐC trên thị trường Việt Nam hiện nay. Đồng thời, nó cũng giúp giản tiện các thủ tục hành chính vốn đang là rào cản lớn đối với hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp đang mong muốn đầu tư vào thị trường Việt Nam trong đó có các doanh nghiệp mong muốn đầu tư vào thị trường bán lẻ theo phương thức BHĐC.

3.2.5.2. Các vấn đề liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và năng lực tài chính của doanh nghiệp BHĐC

Liên quan đến quy định về khoản tiền ký quỹ, tác giả kiến nghị thay hình thức ký quỹ bằng tiền mặt tại ngân hàng như hiện tại bằng hình thức dùng tài sản đảm bảo để thế chấp hoặc dùng chứng thư bảo lãnh của ngân hàng để đảm bảo không lãng phí nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, cần phải có sự xem xét lại định mức ký quỹ trên cơ sở đánh giá tác động của nó đối với hoạt động của các doanh nghiệp BHĐC, đặc biệt các doanh nghiệp BHĐC trong nước khi mà tình hình kinh tế khó khăn, đòi hỏi giam một khoản tiền lớn như vậy sẽ gây hệ lụy rất lớn cho hoạt động của các doanh nghiệp này.

Bên cạnh đó, cần phải xem xét lại quy định về việc sử dụng khoản tiền ký quỹ vì nếu quy định như hiện tại, khoản tiền ký quỹ này khó có thể được sử dụng hiệu quả trong thực tế. Pháp luật cần quy định theo hướng cho phép sử dụng khoản tiền ký quỹ ngay cả trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp BHĐC để sử dụng hiệu quả khoản tiền này. Có như vậy, khi doanh nghiệp BHĐC vi phạm nghĩa vụ đối với người tham gia BHĐC thì quyền lợi của người tham gia sẽ nhanh chóng được khôi phục.

Vấn đề vốn pháp định, BHĐC không phải là ngành nghề kinh doanh mà chỉ là phương thức tiếp thị và bán lẻ hàng hóa, vì vậy, việc đặt ra vốn pháp định cho phương thức này là trái với nguyên tắc về điều kiện kinh doanh được quy định trong

Luật doanh nghiệp. Cùng với đó, cơ chế điều kiện kinh doanh kép chắc chắn sẽ gây ra những trở ngại và khó khăn cho các doanh nghiệp nhiều hơn khi doanh nghiệp triển khai hoạt động BHĐC. Do đó, việc đặt ra yêu cầu về vốn pháp định là không hợp lý. Tác giả kiến nghị các nhà làm luật cần nhanh chóng xem xét điều chỉnh để bỏ quy định này.

3.2.6. Các điều chỉnh khác

Đặt ra những quy định quản lý mạng lưới BHĐC nước ngoài tại Việt Nam, nhà làm luật cần nhanh chóng đưa ra những quy định để quản lý tốt hoạt động của mạng lưới BHĐC của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam hòng kiểm soát nó, vừa là thực thi nghĩa vụ thành viên của WTO [01]. Triển khai sớm quy định này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của NTD và NPP trong nước khi bị các doanh nghiệp BHĐC nước ngoài tiếp cận. Hơn nữa, việc không có cơ chế đảm bảo áp dụng trong thực tế sẽ làm giảm lòng tin của người dân vào bộ máy quản lý đối với hoạt động BHĐC.

Bổ sung thêm các trường hợp bị coi là kinh doanh theo mô hình kim tự tháp bị cấm. Như đã nói, việc cấm kinh doanh theo mô hình kim tự đã được ghi nhận ở tất cả các quốc gia trong phạm vi nghiên cứu. Đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam, chúng ta thấy rằng, quy định của pháp luật Việt Nam còn khá sơ sài, chưa bao quát được nhiều trường hợp bị coi là bán hàng theo mô hình kim tự tháp bị cấm. Trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các nước, chúng ta có thể bổ sung thêm các trường hợp bán hàng kim tự tháp bị cấm khác bao gồm: Bắt buộc người tham gia phải mua một lượng hàng hóa nhất định hoặc thỏa mãn yêu cầu, điều kiện nhất định cho việc tham gia cũng như nhận tiền hoa hồng hay các lợi ích kinh tế khác; cố ý cung cấp cho người tham gia vào hệ thống số lượng sản phẩm bất hợp lí vượt quá khả năng bán lại hoặc tiêu dùng trong một khoảng thời gian; người tham gia không được tự do mua hàng, họ bị ép mua những gói hàng hóa đã được lựa chọn và sắp xếp theo từng vị trí hoặc trên cơ sở của việc trả thưởng; chấm dứt tư cách người tham gia không thuộc các trường hợp được phép chấm dứt theo quy định; khuyến

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 12/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí