hơn, gộp nội dung phân tích cơ cấu tài sản và phân tích cơ cấu nguồn vốn vào cùng một bảng, phần số liệu chỉ thể hiện tỷ trọng (tính bằng %) của những chỉ tiêu tổng quát, không tính các chỉ tiêu chi tiết, không thể hiện số tiền nên không thể biết được quy mô của các chỉ tiêu là bao nhiêu, từ đó không thể kết luận được chính xác là các khoản mục đó lớn hay nhỏ, cũng không có phần tính chênh lệch tỷ trọng qua các thời điểm nên không thấy được sự thay đổi của các chỉ tiêu. Bảng phân tích được thiết kế ngắn gọn, qua loa, chưa cung cấp nhiều thông tin cho người sử dụng, nội dung trình bày trong bảng chưa phù hợp với tiêu đề của bảng, hiệu quả sử dụng thông tin từ bảng phân tích còn rất thấp.
- Phân tích khả năng thanh toán:
Các CTCK đều sử dụng các hệ số khả năng thanh toán hiện hành, hệ số khả năng thanh toán nhanh, một số ít CTCK sử dụng hệ số khả năng thanh toán bằng tiền khi phân tích khả năng thanh toán. Rất ít bảng phân tích nêu công thức tính các hệ số, tên gọi của cùng một hệ số ở các CTCK khác nhau cũng không thống nhất mặc dù số liệu được dùng để tính có nguồn gốc như nhau, chẳng hạn: Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt, Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công Thương gọi là hệ số khả năng thanh toán hiện hành, nhưng một số CTCK khác gọi là hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn.
Tên gọi của hệ số không đúng với công thức tính của hệ số, gọi là hệ số khả năng thanh toán bằng tiền nhưng số liệu tính toán là dùng khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền. Những điều này dễ gây ra sự nhầm lẫn và lúng túng khi tiếp cận các thông tin về khả năng thanh toán.
Các chỉ tiêu mới chỉ tính cho thời điểm đầu năm và cuối năm mà không tính toán cho những thời điểm trước đó, người sử dụng thông tin khó đưa ra những nhận định về khả năng thanh toán ở nhiều thời điểm khác nhau của nhiều năm tài chính khác nhau. Ngoài ra, hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả và hệ số khả năng thanh toán nợ dài hạn đã bị các CTCK bỏ qua, do vậy không biết được khả năng thanh toán nợ dài hạn và ngắn hạn các khoản nợ đến hạn trả là cao hay thấp.
Số lượng chỉ tiêu tính toán còn thiếu, không có sự liên kết với nhau, chỉ đưa
ra những nhận định sơ bộ cho từng chỉ tiêu mà mất đi tính khái quát hóa về khả năng thanh toán của CTCK.
- Phân tích hiệu năng hoạt động và khả năng sinh lời:
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Tích Cơ Cấu Nguồn Vốn Và Cơ Cấu Tài Sản Của Ctck Csc
- Phân Tích Năng Lực Hoạt Động Và Khả Năng Sinh Lời Của Ctck Cls
- Phân Tích Các Hệ Số Phù Hợp Trong Khu Vực Kinh Doanh Của Ctck Avs
- Sự Cần Thiết Và Quan Điểm Hoàn Thiện Phân Tích Tình Hình Tài Chính Của Các Công Ty Chứng Khoán Việt Nam
- Quy Trình Phân Tích Tình Hình Tài Chính Theo Hướng Hoàn Thiện
- Hoàn Thiện Nội Dung Và Chỉ Tiêu Phân Tích Tình Hình Tài Chính
Xem toàn bộ 296 trang tài liệu này.
Lợi nhuận luôn là mối quan tâm hàng đầu của CTCK và các cổ đông. Do đó, các CTCK đã phân tích khả năng sinh lời và năng lực hoạt động trong nhiều năm, trong đó tập trung vào các chỉ tiêu là sức sinh lợi của tài sản (ROA), sức sinh lợi của doanh thu (ROS), sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE).
Khi phân tích năng lực hoạt động, CTCK chỉ dùng chỉ tiêu về số vòng quay của tổng tài sản và tài sản lưu động, không dùng chỉ tiêu thời gian một vòng quay; không phân tích hiệu năng sử dụng tài sản dài hạn, hiệu năng sử dụng vốn chủ sở hữu, hiệu năng sử dụng tài sản ngắn hạn. Còn khi phân tích khả năng sinh lời thì các CTCK không phân tích khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn, khả năng sinh lời của tài sản dài hạn.
Với những CTCK có kết quả kinh doanh thua lỗ thì sẽ không thực hiện phân tích khả năng sinh lời như Công ty Cổ phần Chứng khoán Kim Long (năm 2008, năm 2010), Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (6 tháng đầu năm 2011), Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (năm 2008, năm 2010), chỉ có Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công Thương là thực hiện đầy đủ. Bên cạnh các chỉ tiêu ROA, ROE, ROS, Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn còn tính chỉ tiêu sức sinh lời của vốn điều lệ. Trong khi đó, Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt thì không tính số vòng quay trong các năm. Tuy nhiên, các chỉ tiêu phân tích được trình bày riêng rẽ cho từng năm mà không có số liệu so sánh, phản ánh thay đổi về quy mô và tốc độ. Ưu điểm chung về nội dung phân tích này của các CTCK là tên gọi, công thức tính và đơn vị tính của các chỉ tiêu sinh lời và năng lực hoạt động phần lớn thống nhất với nhau, ít gây nhầm lẫn cho người sử dụng thông tin.
Thực trạng phân tích tình hình tài chính tại các CTCK có những tồn tại là do một số nguyên nhân như: (1) Do Ban giám đốc chưa xem công tác phân tích tình hình tài chính như một bộ phận chức năng của CTCK, 100% CTCK khảo sát xem việc phân tích tình hình tài chính là một nhiệm vụ kiêm nhiệm của phòng tài chính
kế toán hoặc phòng phân tích và đầu tư, vì vậy, không có những qui định về quyền hạn, trách nhiệm cho những người thực hiện công việc này; (2) Do CTCK thiếu một qui trình phân tích tình hình tài chính rõ ràng, khoa học, đầy đủ, chuyên nghiệp; (3) Do các qui định về chế độ kế toán, tài chính nói chung và của lĩnh vực chứng khoán nói riêng khá nhiều và thường xuyên thay đổi, ít nhiều ảnh hưởng đến việc sử dụng số liệu để tính chỉ tiêu và những kết luận quan trọng. Trong khi đó, cơ quan quản lý Nhà nước vẫn chưa có chế tài xử lý thích đáng những CTCK vi phạm việc công bố thông tin tình hình tài chính theo quy định. Bộ Tài chính mới chỉ quan tâm và yêu cầu công bố một số chỉ tiêu cơ bản. Việc phân tích tình hình tài chính là do CTCK hoàn toàn quyết định, tùy thuộc vào từng CTCK cụ thể. Có 100% CTCK và có khoảng 57% ý kiến chuyên gia cho rằng nội dung phân tích tình hình tài chính của CTCK có khác biệt ở mức độ vừa phải so với nội dung phân tích tình hình tài chính của khách hàng, hệ thống chỉ tiêu phân tích tình hình tài chính của CTCK cũng có khác biệt so với loại hình doanh nghiệp khác; tuy nhiên, sự khác biệt này chưa được các CTCK thể hiện rõ nét khi phân tích tình hình tài chính.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 đã trình bày những nội dung sau:
- Tổng quan về hệ thống công ty chứng khoán Việt Nam: Gồm những vấn đề cụ thể như lịch sử hình thành và phát triển, đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán và bộ sổ kế toán, đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh và phân cấp quản lý tài chính, vai trò của công ty chứng khoán đối với thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung;
- Thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam: Khảo sát thực trạng tại 30 công ty chứng khoán niêm yết trên hai Sở Giao dịch chứng khoán, đại diện cho mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh và mô hình công ty chứng khoán đa năng;
- Đánh giá thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán: Căn cứ vào thực trạng phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán được khảo sát để đưa ra những nhận xét, đánh giá, những ưu điểm, những tồn tại trên các mặt như tổ chức phân tích, phương pháp phân tích và nội dung phân tích.
Chương này này cung cấp bức tranh thực tế về phân tích tình hình tài chính của các công ty chứng khoán Việt Nam, từ đó làm căn cứ cho việc hoàn thiện phân tích tình hình tài chính ở Chương 4.
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.1. Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán Việt Nam
4.1.1. Quan điểm chủ đạo và mục tiêu chiến lược
Sự phát triển mạnh trải theo bề rộng của thị trường chứng khoán, sự phát triển về lượng trong giai đoạn 2000-2010 đã giúp thị trường chứng khoán thăng hoa và sẽ tạo đà cho sự phát triển của thị trường chứng khoán trong thập kỷ sắp tới nếu tìm được đúng điểm nhấn. Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán trong giai đoạn tới, vì vậy, vừa phải kế thừa những nội dung tốt nhằm duy trì sự phát triển này, mặt khác, phải xác định các điểm đột phá nhằm thúc đẩy sự phát triển theo một định hướng mới căn bản hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu thị trường và nhu cầu của cả nền kinh tế.
Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn sắp tới sẽ hướng tới mục tiêu: tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt từ 70% đến 100% GDP vào năm 2020, tăng tính hiệu quả cho thị trường trên cơ sở tái cấu trúc tổ chức thị trường chứng khoán, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin, nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường, các tổ chức phụ trợ thị trường và của thị trường chứng khoán Việt Nam, tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm, củng cố lòng tin của nhà đầu tư...
Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến năm 2020 đã được Chính phủ đưa ra tại Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 08 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Cụ thể [23]:
- Mục tiêu tổng quát: Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn
Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo; từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế; đảm bảo tính công khai, minh bạch, duy trì trật tự, an toàn, hiệu quả, tăng cường quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường các nước trong khu vực.
- Mục tiêu cụ thể: Phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2020 đạt 70% GDP.
4.1.2. Định hướng phát triển đến năm 2020
Để đạt được những mục tiêu trên, nhiệm vụ đầu tiên được tính đến là hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực quản lý. Trong đó, giai đoạn 2011-2013 tập trung hoàn thiện hệ thống văn bản trên cơ sở Luật Chứng khoán và Luật Chứng khoán sửa đổi..., tiến tới xây dựng Luật Chứng khoán thế hệ thứ hai vào năm 2015 với mức độ tự do hóa hoạt động thị trường cao hơn. Đồng thời, là việc cải thiện chất lượng và đa dạng hóa nguồn cung thông qua việc từng bước nâng cao điều kiện niêm yết, củng cố chế độ công bố thông tin theo lớp trên cơ sở quy mô vốn và số lượng cổ đông của các công ty đại chúng, thể chế hóa các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về quản trị công ty, quản trị rủi ro và bảo vệ nhà đầu tư thiểu số. Cùng với đó, chiến lược cũng tập trung vào việc phát triển nhà đầu tư tổ chức (quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm), coi việc phát triển nhà đầu tư tổ chức là giải pháp mang tính đột phá nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán.
Cơ sở cho nhà đầu tư là một trọng tâm của chiến lược phát triển thị trường chứng khoán trong giai đoạn 2010-2020, trong đó đặc biệt chú ý phát triển: hệ thống các loại hình quỹ đầu tư như quỹ mở, quỹ đóng, quỹ ETF, quỹ bất động sản, khuyến khích phát triển các sản phẩm liên kết bảo hiểm và triển khai hệ thống các quỹ hưu trí tự nguyện, hướng tới hệ thống an sinh xã hội dựa trên ba trụ cột theo
thông lệ quốc tế. Đồng thời, tiếp tục khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân, khai thác cơ sở nhà đầu tư nước ngoài, theo hướng tập trung khuyến khích tổ chức đầu tư nước ngoài có mục tiêu đầu tư dài hạn.
Ngoài ra, chiến lược cũng đề cao nhiệm vụ mang tính chiến lược như: nâng cao năng lực và sức cạnh tranh cho hệ thống các tổ chức trung gian thị trường, đặc biệt chú trọng tới việc nâng cấp và chuẩn hóa hệ thống quản trị rủi ro tại các tổ chức này theo thông lệ quốc tế, củng cố lòng tin thị trường, đa dạng hóa và đồng bộ hóa cấu trúc thị trường, tập trung phát triển thị trường trái phiếu chính phủ, từng bước phát triển thị trường trái phiếu công ty và thị trường phái sinh, kết hợp với việc tái cấu trúc tổ chức thị trường, hướng tới một hệ thống thị trường hoàn thiện và hiện đại hóa.
Trong thập kỷ tới, thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh, tuy nhiên, cơ hội phát triển luôn đồng hành cùng với những thách thức. Vì vậy, định hướng của thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2020 được đặt ra như sau [23]:
Một là, phát triển thị trường chứng khoán phải dựa trên chuẩn mực chung của thị trường và các thông lệ quốc tế tốt nhất, phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, tích cực hội nhập với thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
Hai là, phát triển thị trường chứng khoán đồng bộ, toàn diện, hoạt động hiệu quả, vận hành an toàn, lành mạnh, vừa góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển của xã hội vừa tạo ra những cơ hội đầu tư sinh lợi, góp phần nâng cao mức sống và an sinh xã hội.
Ba là, phát triển thị trường chứng khoán nhiều cấp độ, bảo đảm chứng khoán được tổ chức giao dịch theo nguyên tắc thị trường, có sự quản lý, giám sát của Nhà nước; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Bốn là, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trường, đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả dựa trên
nền tảng quản trị rủi ro và phù hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế. Từng bước tái cơ cấu hệ thống các trung gian thị trường trên nguyên tắc không gây xáo trộn lớn và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên thị trường.
Năm là, phát triển thị trường chứng khoán trong mối tương quan với việc phát triển thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ thống thị trường tài chính thống nhất, đồng bộ có sự quản lý, giám sát của nhà nước. Hoạt động quản lý, giám sát, điều hành và phát triển của các cơ quan quản lý nhà nước phải thống nhất về mục tiêu, mục đích, định hướng và giải pháp thực hiện.
Sáu là, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh, từng bước thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa thị trường chứng khoán Việt Nam so với các thị trường khác trong khu vực và trên thế giới.
Trên cơ sở những định hướng trên, giải pháp cụ thể sẽ tập trung vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt từ 80% đến 110% GDP vào năm 2020. Phát triển thị trường trái phiếu trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Chú trọng đặc biệt phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho Ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản. Củng cố một cách căn bản cầu đầu tư chứng khoán; phát triển và đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, phát triển hệ thống nhà đầu tư tổ chức, khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dài hạn, tiếp tục phát triển hệ thống nhà đầu tư cá nhân. Ngoài ra, một thị trường dựa trên nền tảng vững chắc tạo ra bởi hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức trong nước chắc chắn sẽ trở nên linh hoạt hơn trước những cú sốc kinh tế và tài chính. Do đó, việc phát triển hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức trong nước cũng là một vấn đề then chốt cần được lưu ý để có thể giúp hệ thống tài chính phòng vệ chống lại ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài.
Thứ hai, tăng tính hiệu quả của thị trường trên cơ sở tái cấu trúc thị trường chứng khoán, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin. Từng bước hiện đại hóa các Sở Giao dịch chứng