Thứ hai, nhóm nhân tố liên quan đến điều kiện để thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá được thực hiện nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn, bền vững hay không bền vững... là tuỳ thuộc vào những điều kiện khách quan chung của mỗi nước. Những điều kiện này bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, nhưng nhìn chung chúng có thể được tập hợp thành 3 nhóm yếu tố cơ bản là: thị trường và sự phát triển của thị trường; sự phát triển của kết cấu hạ tầng; tập quán và lối sống của dân cư.
Thị trường và sự phát triển của thị trường tác động tới động lực và sự bền vững của công nghiệp hoá, hiện đại hoá tác động đến phương hướng phát triển của các ngành, các sản phẩm, từ đó tác động tới cơ cấu của sản xuất kinh doanh của vùng, tới hiệu quả của từng cơ sở kinh doanh. Nó cũng tác động tới bước đi cũng như cơ cấu lãnh thổ và phân bố lực lượng sản xuất trong vùng.
Sự phát triển của kết cấu hạ tầng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá có mối quan hệ qua lại rõ rệt. Ở những vùng có công trình thuộc kết cấu hạ tầng phát triển, quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra một cách thuận lợi hơn, có tốc độ và quy mô lớn hơn. Ngược lại, ở những nơi đã đạt trình độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cao thì không những cơ sở hạ tầng phát triển, đồng bộ hơn, mà chúng cũng thường xuyên được củng cố, nâng cấp, hoàn thiện và mở rộng hơn. Chính bởi mối quan hệ qua lại chặt chẽ này mà việc phát triển kết cấu hạ tầng vừa được coi là điều kiện, một nội dung, một quá trình, một bộ phận cấu thành không thể tách rời của toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung.
Tập quán và lối sống của dân cư tác động đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách gián tiếp thông qua nhận thức về các giá trị, triết lý, cách tư duy và động lực của dân cư cũng như các nhà kinh doanh trong tỉnh và trong vùng.
Thứ ba, nhóm nhân tố liên quan đến việc huy động các nguồn lực cho chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
Ngoài việc phải có các nguồn lực để làm tiền đề và các điều kiện thì cần phải sử dụng hệ thống các công cụ liên quan đến việc huy động các nguồn lực để tác động làm cho CCKT chuyển dịch đúng hướng, đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra. Nhóm các yếu tố này bao gồm đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng thời kỳ. Tính hoàn thiện của bộ máy nhà nước, luật pháp và thể chế kinh tế sẽ là điều kiện có tính quyết định đến sự hình thành và phát triển CCKT có hiệu quả [ 45 ].
Sự ổn định, minh bạch, đồng bộ của thể chế kinh tế sẽ góp phần phát triển CCKT theo chiều hướng tốt. Những yếu tố chủ quan cũng có vai trò quan trọng trong việc làm giảm hoặc làm tăng lên các tác động tích cực và tiêu cực đối với sự chuyển dịch CCKT. Cơ chế quản lý sẽ tác động lên cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo ra sự cân đối lực lượng lao động và thu nhập giữa các vùng, giảm bớt khoảng cách chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn.
Có thể bạn quan tâm!
- Nguồn Vốn Vay Các Tctd Khác Và Ngân Hàng Trung Ương
- Chuyển Dịch Cckt Theo Hướng Cnh, Hđh
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quá Trình Chuyển Dịch Cckt Theo Hướng Cnh, Hđh
- Hoàn thiện hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn miền Đông Nam Bộ theo hướng CNH-HĐH - 8
- Vị Trí Địa Lý Kinh Tế Và Hạ Tầng Kinh Tế - Xã Hội
- Tăng Trưởng Gdp Thời Kỳ 2004 -2008 (Tính Theo Giá Thực Tế)
Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.
Chúng ta biết rằng CCKT mang tính khách quan khoa học, tính lịch sử xã hội, nhưng các tính chất đó của CCKT lại chịu sự chi phối của Nhà nước. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào CCKT, nhưng có thể tác động gián tiếp thông qua định hướng phát triển và các công cụ điều tiết thể chế, chính sách, pháp luật. Định hướng phát triển kinh tế không chỉ nhằm khuyến khích mọi lực lượng sản xuất xã hội đạt được mục tiêu đề ra mà còn đưa ra các dự án để thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia; đưa các ngành, lĩnh vực và thành phần kinh tế cùng phát triển; bảo đảm tính cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế. Nhà nước miễn, giảm thuế hoặc quy định mức thuế suất thấp để người sản xuất có lợi nhuận cao nhằm khuyến khích các ngành, sản phẩm; đối với các ngành, lĩnh vực không khuyến khích, Nhà nước sẽ thông qua các chính sách để hạn chế đầu tư sản xuất. Nhà nước cũng
có thể khuyến khích lao động đến các nơi có tài nguyên thiên nhiên, có nhu cầu sử dụng lao động thông qua các chính sách kinh tế - xã hội, ngược lại muốn hạn chế việc di dân ồ ạt vào các đô thị lớn thì phải đầu tư phát triển các thị xã, thị trấn và nông thôn. Trong một số trường hợp, Nhà nước phải trực tiếp tổ chức sản xuất, bảo đảm sự cân đối giữa các sản phẩm, các ngành, lĩnh vực, các lãnh thổ trong nền kinh tế.
Việc quy hoạch và lựa chọn chiến lược, việc hoàn thiện hệ thống chính sách và luật pháp có liên quan đến việc huy động tối đa các nguồn lực cho chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề hết sức cấp thiết. Bởi vì, chỉ có hoàn thiện các chính sách vĩ mô mới tạo ra động lực để huy động có hiệu quả các nguồn lực vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thông qua việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, ban hành các quy chế về tiền tệ tín dụng, thanh toán, NHTW của mỗi quốc gia sẽ thực hiện chức năng, vai trò của mình đó là ổn định giá trị của đồng tiền, kiểm soát việc cung ứng tiền, tạo điều kiện cho ổn định và thúc đẩy chuyển dịch CCKT. Quản lý của NHTW đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng được thể hiện qua việc thực thi chính sách tiền tệ, chính sách kích thích, tích tụ, tập trung vốn, huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Nhằm mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo đúng định hướng, NHTW tác động vào hoạt động tín dụng của các NHTM thông qua các biện pháp sau:
Một là, sử dụng các công cụ điều chỉnh vốn khả dụng: chủ yếu tác động tới khả năng về nguồn vốn cho vay của NHTM. Các công cụ đó là: tái cấp vốn và lãi suất tái cấp vốn, thị trường mở, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng.
Hai là, sử dụng các công cụ tác động đến cầu về tín dụng của nền kinh tế, đó là : điều kiện tín dụng, chính sách lãi suất tín dụng.
1.2.2. Vai trò hoạt động tín dụng NHTM trong việc thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH
Như trên đã phân tích, mục tiêu trực tiếp của chuyển dịch CCKT là đạt tới CCKT tối ưu trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của CCKT cũ, thay thế những mặt lạc hậu, lỗi thời của CCKT cũ. Hơn nữa, CCKT luôn vận động và biến đổi, do các yếu tố cấu thành luôn vận động và biến đổi. Do vậy, việc định hướng và xây dựng CCKT của cả nước, của từng vùng và của từng địa phương hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực và thế giới là tất yếu khách quan, là nhu cầu không thể thiếu được của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Và tất cả các hoạt động kinh tế đều hướng vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược đó.
Từ thực tiễn quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới đã cho thấy, để đạt được sự phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi phải huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, trong đó vốn là nguồn lực cực kỳ quan trọng. Là một nước đang phát triển, Việt Nam đang tiến hành công cuộc CNH, HĐH nhằm mục tiêu đưa đất nước về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, trong đó chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là một tiền đề không thể thiếu. Cho nên, nhu cầu về vốn để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT là rất lớn và giải pháp quan trọng hàng đầu không chỉ là đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư mà còn cần phải đầu tư đúng hướng và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. Hay nói cách khác, nói đến chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH không thể không nói đến vốn, nó là nguồn lực quan trọng và là điều kiện tiên quyết.
Như vậy, để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH thì cần phải có vốn. Vốn đầu tư cho chuyển dịch CCKT bao gồm cả vốn ngân sách Nhà nước, vốn nước ngoài, vốn của dân và các DN và đặc
biệt là vốn tín dụng của các NHTM. Trong điều kiện hiện nay, vốn ngân sách Nhà nước có hạn, vốn đầu tư nước ngoài còn khiêm tốn, hơn nữa năng lực tích lũy nội bộ của các chủ thể trong nền kinh tế còn thấp, thị trường tài chính chưa hoàn thiện thì việc tập trung vốn qua hoạt động tín dụng của NHTM lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thậm chí nó còn là một trong những nguồn vốn chủ lực đóng vai trò cơ bản trong việc đẩy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
Là một định chế tài chính trung gian, NHTM có vai trò tích tụ và phân bổ có hiệu quả nguồn vốn trong nền kinh tế, điều tiết sự di chuyển vốn đầu tư giữa các khu vực, các ngành, các vùng của nền kinh tế, qua đó tác động tới quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống xã hội. Tín dụng thực sự là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành kinh tế mũi nhọn phát triển cũng như mở rộng thương mại dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn. Do đó, vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT là điều hiển nhiên, nhưng nó không phải là điều kiện đủ. Hoạt động tín dụng của NHTM chỉ là điều kiện cần thiết và thực hiện chức năng phân bổ nguồn lực nhằm thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò và tác động của hoạt động tín dụng ngân hàng đối với quá trình chuyển dịch CCKT được thể hiện ở những điểm sau:
Một là, hoạt động tín dụng ngân hàng thu hút nguồn vốn tiết kiệm và thúc đẩy quá trình tập trung vốn, đáp ứng nhu cầu vốn cho chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH.
Thông qua hoạt động tín dụng của các NHTM, các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế được tập trung lại và sau đó được tiến hành phân phối lại để đáp ứng nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa cũng như nhu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội.
Mặt khác, trong nền kinh tế không chỉ có tái sản xuất giản đơn mà tái sản xuất còn là một quá trình thường xuyên mở rộng và phát triển, do vậy luôn cần một lượng vốn tương ứng.
Tuy nhiên, việc phân bổ và đáp ứng nhu cầu vốn cho các chủ thể tham gia hoạt động SXKD phải đảm bảo các điều kiện nhất định để tín dụng được thực hiện một cách tập trung có trọng điểm, chủ yếu cho các DN hoạt động SXKD có hiệu quả, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch CCKT một cách hiệu quả, hợp lý và bền vững, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của NHTM.
Như vậy, vốn tín dụng ngân hàng đã giúp các chủ thể tham gia hoạt động SXKD trong nền kinh tế, giải quyết được những khó khăn về vốn và góp phần tăng thu nhập, tăng lợi nhuận. Khi quy mô SXKD của DN, của hộ gia đình càng lớn, thì càng đứng vững hơn trong cạnh tranh, bởi vì khi có vốn, thì các DN, hộ gia đình có thể áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, tăng sản lượng, tăng tỷ trọng hàng hóa và hạ giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó, họ có khả năng dễ dàng trong việc tích tụ và tập trung vốn.
Hai là, hoạt động tín dụng góp phần chuyển tải các tác động của nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô, tác động đến tổng cầu nền kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch CCKT.
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hòa phụ thuộc một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng như đối tượng tín dụng. Vấn đề này, đến lượt nó, lại phụ thuộc các điều kiện tín dụng như lãi suất, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng được quy định trong chính sách tín dụng từng thời kỳ. Như vậy, thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng,
Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Chẳng hạn trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, các nhà đầu tư sẽ có xu hướng thu hẹp đầu tư do tổng cầu trong nền kinh tế giảm sút do thu nhập giảm, hoặc khi nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh do tổng cầu tăng mạnh sẽ gây ra hiện tượng lạm phát cao, rủi ro trong đầu tư sẽ rất lớn. Khi đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng đã đề ra sẽ gặp rất nhiều khó khăn do tính bất ổn của nền kinh tế đã triệt tiêu động lực đầu tư trực tiếp của các chủ thể trong nền kinh tế vào các ngành, lĩnh vực kinh tế. Do vậy, thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, thông qua định hướng hoặc các điều kiện tín dụng sẽ tác động đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng của các NHTM, từ đó sẽ tác động đến cả tổng cung và tổng cầu nền kinh tế, khi tổng cầu tăng tức là sức mua và quy mô tiêu thụ hàng hóa tăng qua đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, tiêu thụ được sản phẩm hàng hóa. Như vậy, hoạt động tín dụng của các NHTM sẽ truyền tải các tác động của nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô trong từng thời điểm để đảm bảo nền kinh tế phát triển và cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng.
Ba là, hoạt động tín dụng NHTM góp phần thay đổi CCKT theo hướng CNH, HĐH.
Chúng ta biết rằng CCKT ngành là loại CCKT quan trọng nhất và là yếu tố quyết định nhất nên tác động của tín dụng vào chuyển dịch CCKT ngành là có ý nghĩa rõ nét và bao trùm nhất. Tín dụng góp phần hình thành các vùng trọng điểm như các KCN tập trung, khu công nghệ cao, các vùng công nông nghiệp kết hợp, thay đổi cơ cấu cây con vv . . . để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành, chẳng hạn: ngành nông nghiệp thông qua cho vay thu mua lương thực, thực phẩm để chế biến và xuất khẩu, tín dụng đã tạo điều kiện khai
thông thị trường cho sản phẩm nông nghiệp, kích thích nông nghiệp phát triển. Nhờ cho vay trung và dài hạn đã hình thành và mở rộng các vùng trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, vùng nuôi trồng thủy sản có hiệu quả và năng suất cao, phát triển ngành nghề và kinh tế trang trại vv... hoặc đối với ngành công nghiệp, thông qua tín dụng thúc đẩy quá trình sắp xếp lại lực lượng các DN hiện có, phát triển các DN công nghiệp mới, phát triển các ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như vậy, hoạt động tín dụng NHTM góp phần thay đổi cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế và làm thay đổi CCKT phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, các DN muốn tồn tại, phát triển đều cần có nguồn vốn, trong đó có vốn tín dụng. Song vốn tín dụng nhìn chung sẽ chỉ được tập trung đầu tư cho các DN, các tổ chức kinh tế làm ăn có hiệu quả không kể chúng thuộc thành phần kinh tế nào. Vì thế muốn có vốn để hoạt động, để tồn tại và phát triển thì mọi DN, tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế phải tự khẳng định tính hiệu quả trong hoạt động của mình. Hệ thống các tổ chức, các chủ thể kinh tế thuộc những thành phần kinh tế có hiệu quả hoạt động kinh doanh cao sẽ phát triển vững mạnh và ngược lại kết quả chung là sự phân phối tín dụng đã góp phần làm cho cơ cấu thành phần của nền kinh tế thay đổi đi hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất cũng như đóng góp của các thành phần kinh tế vào thu nhập của nền kinh tế cũng thay đổi đi. Thực tế cho thấy nhiều dẫn chứng thuyết phục về sự tác động của tín dụng vào việc điều chỉnh tỷ trọng các thành phần trong nền kinh tế và thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chẳng hạn thay đổi cơ cấu DN thông qua đầu tư vốn tín dụng cho loại hình DN cổ phần, qua việc đầu tư vốn tín dụng vào các tổng công ty lớn thuộc ngành kinh tế mũi nhọn của Nhà nước vv...Qua đó cho thấy hoạt động tín dụng NHTM đã tác động vào chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng hiện đại, hiệu quả và phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.