nhỏ
Nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho các cá nhân và doanh nghiệp
Giúp định lượng hóa, định giá và giám sát các mức rủi ro
Nâng cao chất lượng và tính công bằng của các quyết định cho vay
Nâng cao tốc độ hiệu quả của các quá trình ra quyết định
Khuyến khích cạnh tranh trên thị trường
Phòng tránh tình trạng nợ nần xấu
Có thể bạn quan tâm!
- Vai Trò Của Nhà Nước Đối Với Hệ Thống Tttd Ngân Hàng
- Kinh Nghiệm Một Số Nước Về Hệ Thống Thông Tin Tín Dụng Và Bài Học Rút Ra Đối Với Ngân Hàng Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Kinh Nghiệm Phát Triển Ngành Báo Cáo Tttd Ở Trung Quốc
- Giai Đoạn Mở Rộng Nghiệp Vụ Thông Tin Tín Dụng Cho Đến Nay
- Dư Nợ Tín Dụng Của Các Tctd Tại Trung Tâm Tttd
- Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng trong hệ thống ngân hàng Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào - 15
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
Có nhiều mô hình cơ cấu và kinh tế khác nhau phát huy hiệu quả, ở
các mức độ khác nhau, trong các thị trường khác nhau. Kinh nghiệm quốc
tế cho thấy lợi ích tốt nhất của cộng đồng các tổ chức cho vay thường
được đáp ứng thông qua trung tâm TTTD.
Về nội dung thông tin
Trung tâm TTTD thường đối chiếu, so sánh thông tin từ một loạt các nguồn, bao gồm cả dữ liệu từ các tổ chức chính phủ và các doanh nghiệp
bán lẻ
nằm ngoài lĩnh vực dịch vụ
tài chính, mặc dù điều quan trọng là
không hạn chế
trung tâm TTTD thu thập thông tin từ
các nguồn này,
khuyến nghị công việc phát triển trung tâm ban đầu chú trọng vào các dữ liệu các ngân hàng và các công ty tài chính.
Các dữ liệu cần thu thập sẽ phụ thuộc vào việc phân tích các dữ liệu nào là sẵn có và khả năng của những người cung cấp thông tin có thể cung cấp thông tin có chất lượng và kịp thời. Cần lưu ý phải nỗ lực thu thập các dữ liệu tích cực do kết quả phân tích cho thấy là các thông tin này trái với
các dữ liệu thuần túy tiêu cực, sẽ nâng cao đáng kể giá trị
của cơ
sở dữ
liệu cho người sử dụng. Trung tâm TTTD có ý định thu thập thông tin cả về người tiêu dùng và doanh nghiệp, một lần nữa cần lưu ý đây có thể là
một chiến lược bền vững về dài hạn, nhưng trong thời gian ngắn hạn,
trọng tâm của CHDCND Lào là tập trung và xây dựng cơ sở dữ liệu người tiêu dùng.
Về việc tiếp cận sử dụng dữ liệu
Việc tiếp cận vào các cơ
sở dữ
liệu của trung tâm TTTD thường
được quản lý theo các nguyên tắc trao đổi đối ứng, Theo khái niệm này, chỉ có các tổ chức có đóng góp thông tin cho trung tâm mới được tiếp cận dữ
liệu. Cơ
chế
này còn khuyến khích những người cung cấp dữ
liệu đảm
bảo rằng họ cung cấp thông tin có chất lượng và kịp thời, các tổ chức cho
vay thường xuyên không đáp
ứng được các nghĩa vụ
này sẽ
không được
quyền truy cập vào dữ liệu, điều này đặt họ và một vị thế bất lợi về mặt thương mại.
Các nghĩa vụ
tương
ứng của trung tâm TTTD và các thành viên có
thể
được quy định theo một thỏa thuận sử
dụng thông tin giữa hai bên.
Việc tiếp cận thông tin có thể bị chấm dứt đối với bất kỳ tổ chức nào nếu không có thỏa thuận sử dụng thông tin hoặc vi phạm các quy tắc trong thỏa thuận.
Một số ngoại lệ đối với các quy định trên có thể được cho phép, bao
gồm:
Việc cung cấp dữ liệu tổng hợp cho các cơ quan chính phủ có thẩm
quyền cho các mục đích giám sát và phân tích thống kê.
Việc tiếp cận thông tin của cảnh sát, tùy theo sự cho phép của tòa án, cho mục đích điều tra hình sự.
Việc tiếp cận của tổ chức không có thỏa thuận đăng ký sử dụng
thông tin với trung tâm TTTD đối với các thông tin thuộc phạm vi công cộng, ví dụ như không bao gồm các dữ liệu do ngân hàng chia sẻ.
Việc tiếp cận của các cá nhân vào các hồ sơ của chính họ.
Cũng cần cân nhắc đến việc sử dụng được cho phép đối với cơ sở dữ liệu này. Việc sử dụng cơ sở dữ liệu nhằm hỗ trợ việc ra các quyết
định tín dụng (như đơn xin vay mới, gia hạn, tăng hạn mức tín dụng) là dự
định ban đầu, nhưng cơ
sở dữ
liệu này có thể
cung cấp các lợi ích tăng
thêm cho các tổ chức cho vay khi sử dụng trong thu nợ và tiếp thị. Các yếu
tố này thường được đề cập trong bộ quy tắc hành xử của ngành và thỏa
thuận đăng ký sử dụng thông tin của trung tâm TTTD.
Về xây dựng khuôn khổ pháp lý
Khung pháp lý về hoạt động TTTD ở các nước khác nhau là rất khác nhau nhưng nhìn chung nó nhằm mục đích là phát triển thị trường tín dụng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bao gồm các luật sau: luật báo cáo tín dụng; luật bảo vệ số liệu; luật bảo vệ người tiêu dùng; quy tắc về cấp tín dụng công bằng và tín dụng tiêu dùng; các điều khoản về đảm bảo bí mật cá nhân và bí mật doanh nghiệp. Mục tiêu chính của khung pháp lý đối với báo cáo tín dụng là cân bằng giữa việc trao đổi TTTD trong khi đó vẫn đảm bảo quyền riêng tư cá nhân.
Vai trò then chốt Ngân hàng Nhà nước trong quá trình hình thành một ngành hoạt động trung tâm TTTD lâu bền là tạo ra một môi trường pháp lý có hiệu quả. Phải thảo ra quy định cho phép việc chia sẻ dữ liệu giữa các
ngân hàng, quy định này có thể bao gồm các hướng dẫn nhằm bắt buộc
đóng góp dữ liệu cho trung tâm TTTD, quy định các trường hợp trong đó tổ chức cho vay bắt buộc phải tham khảo thông tin từ trung tâm TTTD và quy định các hình phạt đối với việc không tuân thủ.
Ngân hàng Nhà nước cần phải thường xuyên giám sát hoạt động của trung tâm TTTD và quản lý các yêu cầu thường xuyên thay đổi của một ngành năng động. Điều này đòi hỏi phải dựa và các cuộc thanh tra định kỳ
để xem xét chất lượng thông tin và khi cần thiết có thể có các hành động xử lý đối với các tổ chức tham gia sử dụng thông tin thường xuyên không tuân thủ bộ quy tắc hành xử. Vai trò giám sát này bao gồm việc đại diện
trước Chính phủ để đảm bảo các sáng kiến đề
xuất có thể có, như
việc
ban hành các bộ luật rộng rãi về bảo mật hay bảo vệ dữ liệu, sẽ không có
ảnh hưởng có hại đến ngành tài chính.
Về xây dựng các nghiệp vụ
Về
thu thập thông tin: Thu thập thông tin về
lịch sử
vay nợ
nên
được mở rộng từ nhiều nguồn không đơn thuần chỉ là những thông tin từ các TCTD như các đơn vị phát hành thẻ tín dụng, công ty cấp vốn vay và
các tổ
chức tài chính vi mô, các đơn vị
là khách hàng lớn của doanh
nghiệp… Thu thập cả những thông tin pháp lý khác như các phán xét của tòa án liên quan đến doanh nghiệp và cá nhân, quyết định giải quyết phá sản…
Việc mở
rộng quan hệ
giao dịch của các cá nhân và các doanh
nghiệp đang ở bước phát triển mới đó là mở rộng giao dịch với các đơn vị, cá nhân nước ngoài. Do vậy, trung tâm TTTD ngân hàng CHDCND Lào cần
mở rộng liên kết, hợp tác, chia sẻ
thông tin với các cơ
quan đăng ký tín
dụng lớn các nước để thu thập và cung cấp thông tin trên phương diện đầy đủ hơn.
Trung tâm TTTD ngân hàng CHDCND Lào cần có nguồn dữ liệu
với các năng lực xử lý dữ liệu tiên tiến đảm bảo an toàn dữ liệu và cập nhật dữ liệu. Mở rộng các nghiệp vụ giá trị gia tăng khác như chấm điểm
tín dụng, các báo cáo tổng hợp để cung cấp các loại hình sản phẩm đa
dạng, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường trong lĩnh vực thông tin.
Tóm lại, Chương này đã hệ
thống hoá những vấn đề
lý luận về
TTTD và hệ thống TTTD ngân hàng, xây dựng mới các khái niệm về
TTTD, hệ
thống TTTD ngân hàng, phát triển hệ
thống TTTD ngân hàng,
làm rõ chức năng, cấu trúc, phương thức vận hành, mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống TTTD ngân hàng, chi tiết về nội dung đối với từng dịch vụ của TTTD ngân hàng, đưa ra xu hướng phát triển, các nhân tố tác động đến sự phát triển của hệ thống TTTD ngân hàng. Về lý luận trên, đã chỉ rõ lợi ích của TTTD đối với hoạt động tín dụng ngân hàng, cũng như
đối với sự
phát triển nền kinh tế
nói chung. Kết quả
nghiên cứu cũng
khẳng định việc phát triển và hoàn thiện hệ thống TTTD ngân hàng là một tất yếu khách quan trong quá trình đổi mới hoạt động ngành ngân hàng, bảo đảm sự an toàn, phát triển bền vững hệ thống ngân hàng để phục vụ cho
sự nghiệp phát triển nền kinh tế
đất nước. Có thể
nói chương 1 đã đạt
được mục tiêu đề ra, đây chính là những cơ sở, tiền đề khoa học cho việc đánh giá thực trạng hệ thống TTTD ngân hàng CHDCND Lào ở chương 2 và đưa ra những giải pháp hoàn thiện hệ thống TTTD ngân hàng CHDCND Lào ở chương 3.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THÔNG TIN TÍN DỤNG TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ ngân hàng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
thống thông tin tín dụng
Để thực hiện theo định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước
trong công cuộc đổi mới đất nước, hệ thống ngân hàng CHDCND Lào đã triển khai kế hoạch đổi mới từ năm 1997. Trong giai đoạn này, ngân hàng phải đối mặt với một thực tế đầy thách thức: cuộc khủng hoảng kinh tế, lạm phát, dẫn tới hiện tượng người dân mất lòng tin đối với ngân hàng. Một trong những nhiệm vụ đặt ra cho hệ thống ngân hàng trong thời kỳ đầu đổi mới là kiềm chế lạm phát, củng cố niềm tin của dân chúng đối với hệ thống ngân hàng CHDCND Lào.
Xuất phát từ yều cầu thực tế này, ngân hàng CHDCND Lào đã xây
dựng và thành lập đơn vị
thông tin tín dụng để
chuyên môn hóa thu thập
thông tin về khách hàng có quan hệ tín dụng, thông tin kinh tế, các thông tin có liên quan để xử lý, phân tích và cung cấp thông tin trong toàn hệ thống ngân hàng, nhằm giúp cho NHNN có thêm thông tin để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và giúp NHTM nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư tín dụng, giảm thiểu rủi ro.
2.1.1. Giai đoạn thành lập và triển khai tổ chức thông tin tín dụng
Ngày 10/11/1997, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 02/NHNN ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro, thuộc vụ tín dụng và có nhiệm vụ thu thập thông tin khách hàng, cung ứng thông tin nhằm phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh của các TCTD.
Ở thời kỳ này, hoạt động của đơn vị thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro chưa được quy định bởi một văn bản quy phạm pháp luật thống nhất, mà bị chi phối bởi các văn bản quy phạm pháp luật cá biệt. Hệ thống chỉ tiêu, mẫu biểu thu thập thông tin chưa được thống nhất; máy móc thiết bị còn nghèo nàn, chương trình phần mềm còn chưa có, áp dụng chương
trình văn bản đơn giản, số liệu không đầy đủ. Tuy nhiên, thực tiễn cho
thấy việc đưa nghiệp vụ thông tin phòng ngừa rủi ro vào trong hoạt động ngân hàng là hoàn toàn đúng hướng và phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhận thức việc hình thành và triển khai công tác thông tin phòng ngừa rủi ro trong hệ thống ngân hàng là một tất yếu khách quan, đúc rút kinh nghiệm của thời kỳ làm thí điểm trong giai đoạn mới thành lập, để tạo điều kiện cho các cơ quan, bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro hoạt động một cách thống nhất, ngày 08/11/2001 Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 03/NHNN ban hành quy chế về tổ chức hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên cho nghiệp vụ này, tạo thành hành lang pháp lý cho các trung tâm, cơ quan, bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro hoạt động.
Về tổ chức, dựa theo quyết định ngày 08/11/2001 số 03/NHNN, ngày 12/11/2001 Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 294/NHNN chính thức thành lập Trung tâm thông tin tín dụng là một đơn vị phụ thuộc vụ kế toán
tài chính. Các TCTD (từ hội sở chính đến chi nhánh) phải tổ chức thực hiện công tác hoạt động thông tin tín dụng phòng ngừa rủi ro.
Về công tác hoạt động, theo quyết định 03/NHNN đã quy định tất cả các TCTD hoạt động trên lãnh thổ CHDCND Lào đều phải cung cấp thông tin về khách hàng có quan hệ tín dụng của mình cho Trung tâm TTTD theo các mẫu biểu đã quy định, đồng thời quy định các TCTD khi cho vay hoặc
đầu tư vốn cho các doanh nghiệp phải thông qua Trung tâm TTTD để tham khảo thông tin, nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Mặt khác, Trung tâm TTTD cũng đưa ra bản dự thảo báo cáo tổng hợp thông tin tình hình kinh tế tài chính của doanh nghiệp trình lên thống đốc NHNN.
Sau một thời gian hoạt động trong quá trình triển khai quyết định 03/NHNN cũng đặt ra một số khó khăn và tồn tại như sau:
Một là: khi mới hình thành nghiệp vụ này, do chưa xác định rõ nội dụng công việc về thông tin phòng ngừa rủi ro, quy định như vậy quá rộng, vì trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vô vàn rủi ro
(cả
chủ
quan và khách quan), do đó khó có khả
năng thực hiện công tác
nghiệp vụ này.
Hai là: về hệ thống chỉ tiêu mẫu biểu thu thập thông tin, với ý tưởng “thông tin phải đầy đủ”; đồng thời trên cơ sở thông tin nhận được phải tổ
chức xử lý phân tích, tổng hợp đánh giá thông tin doanh nghiệp. Nhưng
thông tin đã nhận được không được đầy đủ và chi tiết, khó khăn cho việc
thiết kế
xây dựng mẫu biểu, làm cho đơn vị
thực hiện báo cáo gặp rất
nhiều khó khăn, cộng với việc chế độ thông tin báo cáo của doanh nghiệp chấp hành không nghiêm chỉnh, nên việc thu thập thông tin về tài chính của doanh nghiệp là rất khó khăn.
Ba là: về
mô hình tổ
chức, qua khảo sát, nghiên cứu một số
kinh
nghiệm của các tổ chức thông tin của nước ngoài, liên hệ với mô hình tổ
chức của CHDCND Lào việc quy định tất cả các TCTD phải tham gia
thành viên và cung cấp đầy đủ
thông tin về
doanh nghiệp cho Trung tâm
TTTD ngân hàng CHDCND Lào là mang tính mệnh lệnh, hành chính, phù