nguồn tài chính đầu tư hàng năm từ NSNN và x< hội cho đào tạo sau đại học
đ< tăng một cách đáng kể.
Biểu 15: Số lượng và kinh phí đào tạo sau đại học
2003 | 2004 | 2005 | |
Số học viên cao học và NCS (người) | 27.573 | 33.755 | 41.336 |
Tổng kinh phí (triệu đồng), trong đó: | 114.951 | 133.977 | 147.617 |
- NSNN cÊp | 69.899 | 73.765 | 84.171 |
- Học phí | 45.052 | 60.212 | 63.446 |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ trong các trường Đại học ở Việt Nam - 13
- Nguyên Nhân Của Những Thành Tựu Trên
- Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ trong các trường Đại học ở Việt Nam - 15
- Phương Hướng Hoàn Thiện Cơ Chế Tài Chính Đối Với Hoạt Động Kh&cn Trong Các Trường Đại Học Ở Việt Nam Những Năm Tới
- Về Phương Hướng Hoàn Thiện Cơ Chế Huy Động Nguồn Tài Chính Đối Với Hoạt Động Kh&cn Trong Các Trường Đại Học
- Giải Pháp Huy Động Nguồn Tài Chính Từ Ngân Sách Nhà Nước
Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.
Nguồn: Tính toán của tác giả từ tài liệu [38]
Từ bảng này cho ta thấy, từ năm 2003 đến nay, số lượng học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng lên rất mạnh. Đồng thời nguồn tài chính để đào tạo nguồn nhân lực này cũng tăng nhanh. Tuy nhiên, đầu tư kinh phí để đào tạo sau đại học, kể cả thạc sỹ, tiến sỹ của nước ta quá thấp, bình quân mỗi năm, để đào tạo 1 học viên cao học hoặc nghiên cứu sinh khoảng 3.600.000 đ. Như thế tính bình quân, kinh phí đào tạo ra một thạc sỹ khoảng 9.000.000
đồng (tương đương 600 USD) và 1 tiến sỹ khoảng 18.000.000 đồng (tương
đương 1.200 USD). Với mức đầu tư tài chính đào tạo như thế, khó đảm bảo các thạc sỹ, tiến sỹ do các trường đại học của nước ta đảm bảo được chất lượng khu vực.
Thêm nữa, với số lượng lớn các học viên cao học và nghiên cứu sinh
đông đảo với nguồn tài chính phục vụ đào tạo sau đại học mặc dù còn ít ỏi như trên, nhưng nếu có sự phối hợp tốt giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo sau đại học, thì các trường vẫn sẽ có thêm nguồn lực cả về nhân lực và tài lực
để nghiên cứu sâu rộng hơn, chất lượng các chương trình, đề tài, luận văn luận án sẽ cao hơn. Từ đó hoạt động KH&CN cũng như đào tạo của nhà trường sẽ mạnh hơn rất nhiều. Song điều đáng nói là, hiện nay ở hầu hết các
trường đại học còn thiếu một cơ chế để phối hợp hai lĩnh vực này. Các đề tài nghiên cứu thạc sỹ, tiến sỹ không gắn với hệ thống đề tài chương trình nghiên cứu của các trường đại học, dẫn đến tình trạng trùng lắp, sao chép,...giữa các
đề tài luận văn, luận án và đề tài KH&CN trong các nhà trường. Việc sử dụng tài chính cho các hoạt động này cũng hoàn toàn biệt lập với nhau.
Thứ năm, thiếu cơ chế sử dụng có hiệu quả kinh phí từ NSNN cho KH&CN trong các trường đại học. Công tác quản lý tài chính chậm chuyển
đổi, vẫn mang nặng tính bao cấp, các yêu cầu chi KH&CN vẫn đòi hỏi NSNN phải đảm bảo toàn bộ, mặc dù các nguồn thu khác rất lớn nhưng chưa tận dụng để giảm bao cấp.
Đề tài nghiên cứu KH&CN ở nhiều chuyên ngành chưa có định mức chi tiêu nên công việc lập dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm soát chi tiêu thiếu căn cứ pháp lý. Tiêu chí phân bổ ngân sách KH&CN chưa ổn định, thiếu tính tự chủ và linh hoạt và chưa đảm bảo tính công bằng giữa các khối trường. Cơ chế quản lý tài chính chậm đổi mới, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Nhiều khoản chi phát sinh nhưng chưa được hướng dẫn nên việc chi tiêu chưa thống nhất. Tính công khai dân chủ trong phân chia NSNN cho KH&CN trong các trường đại học chậm thực hiện, tình trạng thiếu trật tự kỷ cương, vi phạm luật NSNN vẫn xảy ra. Chậm ban hành các văn bản dưới luật để thực thi các chính sách mới về tài chính cho KH&CN. Nguyên tắc sử dụng tập trung, có trọng
điểm ưu tiên đề ra trong nhiều năm nhưng vẫn chưa thực hiện được. Nhà nước chưa có cơ chế tài chính buộc người nghiên cứu (nhất là nghiên cứu ứng dụng) phải có địa chỉ sử dụng kết quả nghiên cứu đề tài đ< thực hiện, để làm căn cứ xét duyệt đề tài kỳ sau. Nhiều đề tài nghiên cứu xong, không cần biết có địa chỉ sử dụng hay không, nhưng chủ nhiệm đề tài đó vẫn tiếp tục nhận đề tài khác.
Bên cạnh chậm được đổi mới về phương thức quản lý đối với nguồn tài chính từ NSNN, thì nguồn tài chính ngoài NSNN cho KH&CN lại chưa
có phương thức quản lý hữu hiệu. Hầu như các cơ quan quản lý chưa có số liệu thống kê về nguồn tài chính này. Do đó, chưa có cơ chế khuyến khích các đơn vị, các trường đại học huy động nguồn tài chính ngoài NSNN một cách rộng r<i.
Việc cấp phát tài chính còn mang tính bình quân và hành chính, theo đơn vị Trường, chưa căn cứ theo nhu cầu đích thực và tính chất quan trọng cũng như hữu ích của từng đề tài. Tình trạng tổ chức phân phối nguồn tài chính cho nghiên cứu còn phân tán cũng là một trong những nguyên nhân hạn chế của cơ chế tài chính cho KH&CN trong các trường đại học hiện nay. Dù nghiên cứu khoa học của các trường đại học là đa mục tiêu, ngoài phát minh những thành tựu mới cho
đất nước, nghiên cứu khoa học trong các trường đại học còn phục vụ cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nhưng với cách thức phân phối nguồn tài chính cho khoa học như hiện nay gần như chủ yếu là bình quân theo đơn vị trường, chưa chú ý đầu tư trọng tâm, trọng
điểm một cách thoả đáng, làm cho nguồn tài chính vốn đ< ít ỏi, lại bị xé nhỏ, phân tán, manh mún, dẫn đến tình trạng hiệu quả sử dụng kinh phí chưa cao.
Hình thức cấp kinh phí chủ yếu vẫn theo mô hình hai nhân tố, tức là kinh phí từ ngân sách nhà nước qua các đơn vị chủ trì, rồi từ các đơn vị chủ trì kinh phí được giao cho các chủ nhiệm đề tài. Những nhà khoa học, với tư cách là cá nhân, các doanh nghiệp ít có cơ hội tiếp cận với nguồn kinh phí này. Cách cấp phát kinh phí này, về hình thức là bảo toàn được nguồn tài chính đầu tư cho KH&CN, nhưng hạn chế trách nhiệm cá nhân của nhà khoa học.
Gần đây, việc xét duyệt đề tài các cấp có sự đổi mới, thông qua phương thức “đấu thầu”. Tuy nhiên, hình thức này vẫn có nhiều ý kiến khác nhau, chủ yếu cho rằng vẫn chưa thật sự đi vào thực chất. Vì vậy, chưa thu hút
đông đảo các nhà khoa học có năng lực, có tâm huyết tham gia nghiên cứu những vấn đề khoa học, công nghệ mà đất nước đang quan tâm.
Vấn đề thanh quyết toán còn nhiều bất cập. Việc tính công lao động chất xám hiện nay chỉ là một sự quy ước tương đối. Một số nội dung chi tiêu của đề tài/dự án đ< có giá của thị trường. Mua máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, dụng cụ, phụ tùng, văn phòng phẩm, chế độ công tác phí, lưu trú, thuê phương tiện đi công tác theo giá thị trường và theo chế độ của nhà nước. Dự toán khoản này lại gặp khó khăn ở chỗ xác định quy mô, phạm vi của đề tài, dự án bao nhiêu là phù hợp? Ví dụ đối với một đề tài thuộc ngành nông nghiệp, phải có một quy mô thử nghiệm khoảng 10 ha, nhưng do kinh phí không đủ nên chỉ dự toán thử nghiệm ở quy mô 5 ha, trong trường hợp này lại phải "liệu cơm gắp mắm".
Đối với sản phẩm nghiên cứu của khoa học x< hội tính theo trang tác giả hay theo chất lượng bài viết? Nếu theo chất lượng bài viết thì ai là người
đánh giá chất lượng? Nếu tính theo trang tác giả thì bất hợp lý vì nhiều trang nhưng chất lượng kém, không có nội dung mới nhưng lại được nhiều tiền hơn, có nội dung mới nhưng ít trang lại được thanh toán ít hơn. Sau một thời gian tính theo trang tác giả đ< được sửa đổi tính theo chuyên đề. Tuy nhiên, một số chế độ chi tiêu đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ hiện nay vẫn còn nhiều bất hợp lý, mang nặng tính áp đặt, mặt khác lại chưa gắn với chất lượng sản phẩm nghiên cứu. Thực tế cho thấy, có những đề tài nhà nước trong dự toán có tới 100 chuyên đề khoa học. Những chất lượng các chuyên đề này như thế nào thì không thể kiểm soát được.
Tất cả các mức chi như trên đều phải có chứng từ đầy đủ. Nhiều đề tài khoa học cấp nhà nước có số lượng trang hoá đơn chứng từ thanh toán lớn hơn số trang viết của báo cáo tổng hợp đề tài. Điều đó làm cho các cán bộ khoa học thấy quá phiền phức, thủ tục rườm rà, mất nhiều thời gian cho khâu lập chứng từ thanh toán, nhiều khi mang tính đối phó.
Có thể nói cơ chế này hiện là rào cản tính chủ động của các nhà nghiên cứu trong việc thực hiện nhiệm vụ do đề tài đặt ra, vừa có kẽ hở để dẫn
đến chi bất hợp lý. [30]
Thứ sáu, mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà trường (người nghiên cứu), người sử dụng và Nhà nước trong huy động và sử dụng nguồn tài chính đối với hoạt động KH&CN chưa thật chặt chẽ
Trong những năm gần đây Nhà nước đ< ban hành các chính sách về x< hội hoá hoạt động KH&CN, đa dạng hoá các nguồn đầu tư tài chính cho KH&CN, theo đó, các cơ quan KH&CN đ< thực sự gắn sản phẩm của mình phục vụ cho sản xuất và họ cũng đ< nhận được kinh phí từ các hợp đồng với sản xuất. Nhờ vậy, hoạt động KH&CN của các trường đại học có được nguồn đầu tư tài chính ngoài ngân sách tăng lên. Với nhiều hoạt động phong phú về hợp đồng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, nhất là với việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu theo quyết định 68 của Thủ tướng Chính phủ,... đ< tạo cho các trường đại học một cơ sở pháp lý đẩy mạnh hoạt động, tranh thủ được nguồn đâu tư tài chính từ các cơ sở sản xuất kinh doanh và phục vụ.
Thêm nữa, trong những năm đổi mới cơ chế kinh tế, chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, sự hiện diện của các tổ chức quốc tế như WB, ADB, JB, UNDP,... ở nước ta ngày càng tăng. Cùng với các những hoạt động khác, việc tài trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học cũng gia tăng. Mặc dù chưa có nguồn thống kê chính xác về sự tài trợ này, nhưng chắc chắn cũng là nguồn tài chính đáng kể cho hoạt động KH&CN.
Tuy nhiên, nguồn đầu tư tài chính ngoài NSNN cho KH&CN trong các trường đại học chưa nhiều. Nhiều trường có hoạt động nghiên cứu triển khai, ứng dụng KH&CN mạnh như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, hàng năm nguồn tài chính cho KH&CN ngoài NSNN cũng
chỉ chiếm khoảng 7-10% tổng nguồn tài chính cho KH&CN của trường. Nhiều trường đại học khác, việc huy động nguồn tài chính ngoài NSNN cho KH&CN còn khó khăn hơn, chưa nói đến có nhiều trường không huy động
được nguồn tài chính này. Từ đó, có thể dự tính, trong cơ cấu đầu tư tài chính cho KH&CN trong các trường đại học, nguồn đầu tư ngoài NSNN, chỉ đạt từ 8-10%, thấp rất nhiều so với các nước phát triển.
Gắn với mức độ thấp trong huy động nguồn tài chính ngoài NSNN cho hoạt động KH&CN là tình trạng hoạt động của các tổ chức nghiên cứu phát triển chưa mạnh. Mặc dù những năm đổi mới, hoạt động của các tổ chức nghiên cứu phát triển đ< huy động một nguồn tài chính đáng kể của x< hội cho hoạt động KH&CN trong các trường đại học. Các tổ chức nghiên cứu phát triển trong các trường đại học bao gồm cả các trung tâm, các viện nghiên cứu, cac công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp 68 là người đi tiên phong đưa cái mới, cái tiến bộ khoa học công nghệ vào cuộc sống. Với sự ra
đời và phát triển của doanh nghiệp 68 đ< tạo tư cách pháp nhân cho hoạt động khoa học trong các nhà trường; Giúp các trường đại học và cao đẳng thực hiện mục tiêu gắn nhà trường với x< hội, lý luận với thực tiễn, thông qua việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu của trường vào thực tiễn; qua đó, kiểm nghiệm chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường đại học; Góp phần nâng cao tính chủ động của các trường đại học trong cơ chế mới.
Tuy nhiên, sự hoạt động của các tổ chức nghiên cứu phát triển vẫn chưa tương xứng với đội ngũ cán bộ khoa học trong các trường đại học và cao đẳng. Hoạt động của các tổ chức nghiên cứu phát triển còn gặp nhiều khó khăn, như thiếu vốn, phạm vi hoạt động chặt hẹp, những xung đột về quan hệ lợi ích nảy sinh nhưng chưa được giải quyết, công tác quản lý nói chung, quản lý tài chính nói riêng còn nhiều bất cập...
Tiểu kết chương 2
Tóm lại, có thể nêu một số điểm tổng quát về chính sách tài chính cho khoa học và công nghệ ở các trường đại học hiện nay như sau:
1. Tình hình huy động nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động KH&CN trong các trường đại học đ< được Đảng và Nhà nước quan tâm, mức đầu tư ngày càng tăng. Tuy nhiên so với yêu cầu thì mức huy động nguồn tài chính từ NSNN đầu tư cho KH&CN của các trường còn rất thấp.
Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải dựa vào khoa học và bằng khoa học thì, cần phải tăng đầu tư tài chính cho KH&CN hơn nữa. Muốn thế trước hết cần phải tăng cường đầu tư tài chính từ NSNN.
2. Xu hướng x< hội hoá nguồn tài chính chưa được quán triệt một cách tích cực trong việc huy động nguồn tài chính cho KH&CN trong các trường đại học. Thiếu những quy định của nhà nước, thiếu hình thức tổ chức huy động,...là nguyên nhân cơ bản làm cho mức x< hội hoá nguồn tài chính còn thấp. Vì thế, việc đa dạng hoá nguồn vốn cho hoạt động KH&CN nói chung, trong các trường đại học nói riêng đòi hỏi phải tiếp tục được thể chế hoá trong các văn bản pháp quy của nhà nước. Đặc biệt phải thu hút được sự quan tâm và đầu tư của các doanh nghiệp cho nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ phục vụ cho sự phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh. Cần tạo ra cơ chế để khoa học gắn với sản xuất, sản xuất tìm đến khoa học, tạo quyền chủ động về tài chính cho các tổ chức KH&CN, có nhiều hình thức và tổ chức huy động nguồn tài chính ngoài NSNN. Đặc biệt là, cần thể chế hoá thành các văn bản quy phạm pháp luật để dựa vào Luật KH&CN vào cuộc sống.
3. Việc phân phối và sử dụng vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho hoạt
động KH&CN trong các trường đại học ngày càng tập trung hơn, đầu tư có trọng tâm trọng điểm hơn. Do vậy hiệu quả sử dụng nguồn tài chính và sản
phẩm của khoa học tác động vào phát triển kinh tế x< hội ngày thiết thực hơn. Tuy nhiên vẫn phải tiếp tục nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý sử dụng nguồn tài chính cho KH&CN nhằm phân bổ hợp lý, sử dụng thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu toàn diện hơn. Đặc biệt cần nghiên cứu để phối hợp sử dụng nguồn đầu tư cho KH&CN với nguồn đầu tư cho đào tạo sau đại học trong các trường đại học.
4. Những vấn đề tác nghiệp cụ thể như định mức chi tiêu, các thủ tục về kế toán tài chính, cơ chế cấp phát, nghiệm thu, đánh giá,...chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN trong các trường đại học cần được tháo gỡ
để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính cho KH&CN.