Cho đến nay Việt Nam đ< có một hệ thống các trường ĐH&CĐ, các viện và trung tâm nghiên cứu trong các trường đại học cùng với đội ngũ giảng viên và cán bộ khoa học đông đảo, đứng hàng đầu trong hệ thống hoạt động KH&CN Quốc gia. Qua nghiên cứu khoa học, đội ngũ giáo viên được bồi dưỡng thêm về lý luận, hiểu biết thêm thực tiễn, từ đó đổi mới được nội dung, phương pháp giảng dạy, tăng cường được năng lực nghiên cứu khoa học, phục vụ sự phát triển kinh tế x< hội của đất nước đồng thời tạo điều kiện để nhà nước chuẩn hoá đội ngũ giáo viên trong các trường đại học.
Tính riêng Bộ GD&ĐT, hiện nay Bộ đang quản lý hoạt động KH&CN của 48 đơn vị trực thuộc, trong đó có 3 đại học, 30 trường đại học, 4 trường cao đẳng, 2 trường cán bộ quản lý giáo dục, 2 viện nghiên cứu, 4 trung tâm và 3 doanh nghiệp Nhà nước. Nhờ tăng đầu tư cho KH&CN, nói riêng, cho các trường đại học nói chung, đội ngũ cán bộ giảng viên các trường đại học trực thuộc Bộ ngày càng được tăng lên về số lượng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Hiện nay, toàn Bộ GD&ĐT có 15.175 giáo viên, trong đó có 175 giáo sư, 968 phó giáo sư, 2568 tiến sỹ và 5559 thạc sỹ. Đây là lực lượng cán bộ có trình độ cao của đất nước, đang góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của nước nhà.
Thứ năm, thúc đẩy khoa học công nghệ của các trường đại học tầng bước hội nhập với quốc tế và khu vực.
Cho đến nay, Việt Nam đ< xây dựng và mở rộng nhiệm vụ HTQT về KH&CN theo NĐT với 20 nước trên thế giới, với sự tham gia của hơn 20 bộ, ngành và địa phương trong cả nước, sự hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Thông qua đó, chúng ta có cơ hội tiếp cận nền KH&CN của thế giới, có sự nhìn nhận và đánh giá chính xác về nền KH&CN nước nhà, từ đó có những chính sách điều chỉnh phù hợp, nhằm thúc
đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là hội nhập về KH&CN nhanh và hiệu quả.
Các nhiệm vụ HTQT theo NĐT được Bộ KH&CN bắt đầu triển khai từ năm 2001, đến nay đ< thu được nhiều kết quả đáng khích lệ cả trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ và quản lý nhà nước về KH&CN. Nhờ có nhiệm vụ HTQT về KH&CN theo NĐT, các trường đại học đ< tổ chức triển khai nghiên cứu được nhiều đề tài dự án khoa học, rút ngắn thời gian nghiên cứu trong nước, tiết kiệm chi phí, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Điểm đáng chú ý là các đề tài hợp tác nghiên cứu theo NĐT với các nước góp phần tích cực vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học cho đất nước nói chung, các trường đại học nới riêng. Thông qua thực hiện các nhiệm vụ này đ< có 170 cán bộ chuyên môn được đào tạo dài hạn, 700 lượt cán bộ
được đào tạo ngắn hạn, đào tạo được 85 tiến sỹ; 140 thạc sỹ; đ< có 357 bài báo đăng trên các tạp chí trong nước, 173 bài đăng trên các tạp chí quốc tế; đ< tổ chức 400 hội nghị, hội thảo, triển l<m KH&CN; 1 sáng chế, 2 giải pháp hữu ích được công nhận; trị giá máy móc, trang thiết bị mà đối tác nước ngoài giúp khoảng 3,5 triệu USD. Điển hình cho hình thức hợp tác này là hai nước Thụy Điển và Đức. Thụy Điển đ< giúp đào tạo cho Việt Nam 48 tiến sỹ, 82 thạc sỹ, ngoài ra hiện còn 60 nghiên cứu sinh và 48 học viên cao học đang
được đào tạo. Trong khuôn khổ chương trình hợp tác Việt - Đức về công nghệ sinh học, phía bạn đang đào tạo cho Việt Nam 15 tiến sỹ trong lĩnh vực này… Thông qua các hoạt động HTQT về KH&CN theo NĐT như tham dự các khoá đào tạo, hội nghị, hội thảo quốc tế và trong nước, kiến thức quản lý KH&CN được nâng lên đáng kể, đặc biệt là năng lực xây dựng, quản lý và
đánh giá các chương trình đề tài, dự án về KH&CN. [42]
2.2.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu trên
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta đB có nhiều chủ trương, quyết sách tăng đầu tư tài chính đối với hoạt động KH&CN trong các trường đại học.
Nhận thức được KH&CN đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong mọi lĩnh vực của x< hội, là động lực không những cho tăng trưởng kinh tế mà còn cho sự thay đổi x< hội và văn hoá, những năm qua Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc phát triển KH&CN, coi giáo dục và đào tạo, KH&CN là quốc sách hàng đầu, hoạt động khoa học và công nghệ của cả nước nói chung, của các trường đại học nói riêng ngày càng có bước tiến vững chắc.
Khẳng định vai trò nền tảng và động lực của KH&CN đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) của Đảng về KH&CN đ< chỉ rõ "Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống" và "đảm bảo kết hợp giữa viện nghiên cứu và trường đại học, gắn nghiên cứu- triển khai với sản xuất kinh doanh".
Ngày 31/12/2002, Thủ tướng Chính phủ đ< chính thức phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện kết luận của Hội nghị lần thứ 6 của BCHTW Đảng khoá IX về phương hướng phát triển GD&ĐT, KH&CN từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010.
Triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về KH&CN, GD&ĐT, những năm qua hoạt động KH&CN của các trường đại học được đẩy mạnh, đ< thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ, ngày càng có những đóng góp thiết thực và có hiệu quả cho sự nghiệp GD&ĐT và cho sự phát triển KH&CN của đất nước. Có thể nói sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đ< thể hiện bằng hành động cụ thể ở những khía cạnh sau:
- Đặt KH&CN đúng với vị trí vai trò của nó trong phát triển đất nước. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đ< khẳng định vai trò của KH&CN là
động lực cho sụ phát triển, là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ đó, mặc dù trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn,
Nhà nước đ< cố gắng đầu tư để phát triển tiềm lực KH&CN, xây dựng cơ sở hạ tầng của các cơ quan nghiên cứu triển khai, đào tạo đội ngũ cán bộ KH&CN.
- Tăng đầu tư cho khoa học nói chung từ ngân sách nhà nước. Nghị quyết số 02/NQ/HNTW Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (Khoá VIII) ngày 24/12/1996 về định hướng chiến lược KH&CN đến năm 2000, đ< ghi: "Tăng dần tỷ lệ ngân sách hàng năm chi cho KH&CN để đến năm 2000 đạt không dưới 2% tổng chi ngân sách Nhà nước". Kết luận của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 khoá IX là tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII, trong đó phấn đấu đến năm 2005 đầu tư cho KH&CN đạt 1,0% GDP và đến năm 2010 đạt 1,5% GDP.
Nhờ đó, đầu tư tài chính từ NSNN cho KH&CN nói chung, cho KH&CN trong các trường đại học tăng lên. Như số liệu điều tra của đề tài cho thấy, kể từ năm 1999 đến 2002, quy mô đầu tư cho KH&CN từ NSNN tăng lên. Nhờ đó, số lượng đề tài nghiên cứu tăng lên, số lượng giáo viên tham gia vào các đề tài nghiên cứu tăng lên, cơ sở vật chất của nhiều trường đại học được trang bị khá hơn, tạo thuận lợi cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu hướng vào tạo công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất và nhu cầu x< hội.
- Đa dạng hoá nguồn tài chính cho nghiên cứu. Các văn bản của Nhà nước đ< nhấn mạnh, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu KH&CN là nhiệm vụ của các cơ quan KH&CN của các cấp, các ngành ở trung ương và địa phương, của các doanh nghiệp, các tổ chức x< hội và tư nhân. Đầu tư cho phát triển KH&CN là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đây cũng chính là phương châm để đa dạng hoá các nguồn vốn cho hoạt động KH&CN trong các trường đại học.
Chính sách này ngày càng thể hiện rõ, nhất là trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, khoa học nông, lâm, ngư. Cùng với việc cắt giảm kinh phí từ NSNN, chuyển một số viện nghiên cứu phát triển sang cơ chế tự trang trải hoặc chỉ được cấp kinh phí một phần và chính sách cho phép các viện được ký hợp đồng chuyển giao kết quả nghiên cứu, thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu đ< thúc đẩy các viện, trung tâm nói chung, trong các trường đại học nói riêng tự tìm kiếm các nguồn tài chính, như: ký hợp đồng nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, tài trợ nước ngoài. Các nguồn này đ< góp phần đáng kể tạo thêm kinh phí cho các viện để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và tạo thêm việc làm cho cán bộ nhân viên.
Thứ hai, nhiều trường đại học đB chủ động khai thác các nguồn tài chính và tăng cường đầu tư cho KH&CN. Các trường đại học lớn, có bề dày hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học như Bách Khoa Hà Nội, Nông nghiệp I Hà Nội và Kinh tế quốc dân đ< chú trọng đầu tư nguồn lực khai thác nguồn tài chính cho hoạt động KH&CN. Nhờ đó, các trường này luôn là các
đơn vị dẫn đầu trong khối ngành về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn, trong khối trường tự nhiên và kỹ thuật, Trường đại học Bách khoa Hà Nội là đơn vị dẫn đầu. Thời kỳ 2001-2005, Trường đ< nghiên cứu gần 1500 đề tài các cấp, với kinh phí từ ngân sách nhà nước là 88,55 tỷ
đồng. [14, tr.24]
Trường đại học Nông nghiệp I là trường dẫn đầu trong khối nông lâm nghiệp. Trong 5 năm 2001-2005 trường đ< chủ trì và tham gia 5 chương trình cấp nhà nước, chủ trì 5 đề tài độc lập cấp nhà nước, 4 chương trình nghị định thư, 1 dự án thử nghiệm cấp nhà nước, 14 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, 11 đề tài trọng điểm cấp bộ, 5 dự án sản xuất thử nghiệm cấp bộ, 114 đề tài cấp bộ 492 đề tài cấp cơ sở, hợp tác với nhiều doanh nghiệp và địa phương trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao kết quả nghiên cứu. Trong 5 năm 2001-
2005 tổng số kinh phí cho hoạt động khoa học là hơn 62 tỷ đồng, trong đó, từ ngân sách nhà nước khoảng 58 tỷ đồng. [9]
Trường Đại học Kinh tế quốc dân là đơn vị dẫn đầu trong việc tổ chức triển khai nghiên cứu khoa học của khối các trường đại học kinh tế luật. Trong giai đoạn 1991-2000 Trường đ< chủ trì 02 và tham gia 01 chương trình cấp Nhà nước, chủ trì 20 đề tài cấp Nhà nước. Trong giai đoạn 2001-2005, trường đ< chủ trì 01 và tham gia 02 chương trình cấp Nhà nước, chủ trì 6 đề tài Nhà nước. Ngoài ra, Trường còn được nhà nước giao chủ trì 3 dự án cấp nhà nước, 3 đề tài
độc lập cấp nhà nước, 4 đề tài hợp tác nghiên cứu theo nghị định thư, 144 đề tài cấp bộ, 95 đề tài cấp trường và hàng trăm đề tài hợp đồng nghiên cứu với các địa phương và doanh nghiệp. Kinh phí cho hoạt động KH&CN từ NSNN của trường trong 5 năm 2001 - 2005 gần 19 tỷ đồng. [12, tr. 201]
Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, đ< được l<nh đạo nhà trường chú ý tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, tư vấn. Mặc dù Trường mới được thành lập sau ngày giải phóng, nhưng là Trường đ< chú trọng đầu tư đến hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Trong 5 năm 2001- 2005, Trường đ< tổ chức nghiên cứu 3 đề tài cấp nhà nước, 97 đề tài cấp Bộ, 145 đề tài cấp trường và 20 đề tài, dự án liên kết với doanh nghiệp, địa phương [12, tr. 285].
Theo số liệu báo cáo của các Trường đại học, nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nguồn kinh phí cho KH&CN. Nếu trường nào biết chủ động khai thác, Trường đó sẽ tăng
được nguồn kinh phí cho hoạt động KH&CN.
Cũng phải nói thêm là, tính chủ động của trường trong hoạt động nghiên cứu khoa học cũng là nhân tố tích cực để tạo nguồn lực cho nghiên cứu khoa học của trường. Với sự năng động của phòng quản lý khoa học trường, sự chủ động của các nhà khoa học đầu ngành của các khoa, bộ môn, Trường đ< khai thác được nhiều đề tài nghiên cứu, kể từ nhiệm vụ do Nhà
nước giao cũng như các đề tài hợp đồng, nghiên cứu với các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp.
Biểu 11: Số lượng đề tài các cấp giai đoạn 2001-2005 do các trường đại học
khối kinh tế thực hiện
Số lượng chương trình, đề tài các cấp (đề tài) | Tỉng sè | ||||
Nhà nước | cÊp Bé | Tr−êng | Liên kết | ||
ĐH Kinh tế quốc dân | 1 CT, 10 ĐT | 144 | 95 | 20 | 285 |
ĐH Kinh tế TP-HCM | 3 ĐT | 97 | 145 | 20 | 265 |
ĐH Thương mại | 1 ĐT | 84 | 134 | 11 | 230 |
ĐH Ngoại thương | 2 ĐT | 61 | 21 | 0 | 84 |
Kinh tế Đà Nẵng | 0 | 68 | 62 | 2 | 132 |
Kinh tÕ HuÕ | 0 | 37 | 153 | 2 | 192 |
Kinh tế Thái nguyên | 0 | 23 | 30 | 2 | 55 |
Học viện Ngân Hàng | 0 | 11 | 67 | 1 | 79 |
Khoa kinh tế- ĐH Cần Thơ | 0 | 14 | 9 | 18 | 41 |
ĐH Mở bán công TPHCM | 0 | 8 | 45 | 0 | 53 |
Tỉng céng: | 1 CT, 16ĐT | 547 | 761 | 76 | 1.396 |
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Sử Dụng Nguồn Tài Chính Đối Với Hoạt Động Kh&cn Trong Các Trường Đạị Học
- Cơ Chế Tài Chính Có Tác Động Tích Cực Đối Với Sự Phát Triển Hoạt Động Kh&cn Trong Các Trường Đại Học.
- Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ trong các trường Đại học ở Việt Nam - 13
- Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ trong các trường Đại học ở Việt Nam - 15
- Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ trong các trường Đại học ở Việt Nam - 16
- Phương Hướng Hoàn Thiện Cơ Chế Tài Chính Đối Với Hoạt Động Kh&cn Trong Các Trường Đại Học Ở Việt Nam Những Năm Tới
Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.
Nguồn: [12, tr.7]
2.2.2. Những hạn chế của cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN trong các trường đại học.
Bên cạnh những thành tựu chủ yếu như đ< nêu trên, cơ chế tài chính cho KH&CN trong các trường đại học còn có những hạn chế chính sau đây.
Thứ nhất, nguồn tài chính đầu tư cho KH&CN trong các trường
đại học từ NSNN còn thấp.
Mặc dù những năm qua Nhà nước đ< có nhiều cố gắng trong việc tăng
đầu tư cho KH&CN nhưng tỷ lệ đầu tư còn rất khiêm tốn, mới đạt được gần
2% chi NSNN. So với nhiều nước khác trên thế giới thì tỷ lệ đầu tư từ NSNN cho KH&CN như thế là thấp.
Xét riêng các trường đại học, đầu tư NSNN cho KH&CN đạt tỷ lệ rất thấp so với tổng số NSNN đầu tư cho khoa học trong cả nước. Theo số liệu của Bộ GD&ĐT, giai đoạn 2001-2005 tỷ lệ đầu tư từ NSNN cho KH&CN của các đơn vị thuộc Bộ GD&ĐT đạt khoảng 4% kinh phí cho KH&CN của cả nước.
Biểu 12: NSNN đầu tư cho KH&CN của các đơn vị trực thuộc Bộ GD&ĐT
Kinh phí cho KH&CN (Triệu đồng) | Tỷ lệ (%) | ||
Cả nước | Bộ GD&ĐT | ||
1997 | 733.000 | 31.087 | 4,24 |
1998 | 912.000 | 34.990 | 3,83 |
1999 | 934.000 | 26.380 | 2,82 |
2000 | 1.885.000 | 51.410 | 2,72 |
2001 | 2.322.000 | 84.735 | 3,65 |
2002 | 2.814.000 | 81.460 | 2.90 |
2003 | 3.180.000 | 85.655 | 2,69 |
2004 | 3.727.000 | 113.390 | 3,04 |
2005 | 4.270.000 | 166.870 | 3,90 |
Nguồn: Tính toán của tác giả trên cơ sở số liệu của các tài liệu [15, 16, 23,24]
Trong khi đó, đội ngũ cán bộ KH&CN trong các trường đại học là rất mạnh. Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, năm 2004, cả nước có 531 Giáo sư, 2544 Phó Giáo sư, khoảng 4.970 tiến sỹ, 9.543 thạc sỹ, 618 chuyên khoa cấp 1 và 2, thì các đơn vị trực thuộc Bộ GD&ĐT quản lý là 175 Giáo sư, 968 Phó Giáo sư 2.586 tiến sỹ, 5.559 thạc sỹ và 70 chuyên khoa cấp 1 và 2. Như vậy, đội ngũ giáo sư các trường đại học thuộc Bộ GD&ĐT chiếm 32,95%, Phó giáo sư chiếm 38,05% , tiến sỹ chiếm 52,03%, thạc sỹ, chuyên khoa cấp 1 và chuyên khoa cấp 2 chiếm 55,39 % so với đội ngũ cán bộ khoa học của cả nước. Trong khi đó, nguồn tài chính đầu tư từ NSNN cho