Quy Trình Xây Dựng Chính Sách Phát Triển Giáo Dục Đại Học


tích áp dụng chung và đồng bộ cho các nghiên cứu về chính sách giáo dục nói chung, chính sách phát triển GDĐH nói riêng và đây cũng là một học thuyết được áp dụng rộng rãi trong kinh tế học ngày nay.


Tuy nhiên, học thuyết vốn con người mới chỉ lý giải về giá trị của sức lao động người ta đầu tư vào mà chưa đề cập đúng mức đến văn hóa và truyền thống bên trong của một xã hội ảnh hưởng đến việc đạt được và sử dụng các kỹ năng và tri thức của loại lao động đó. Nó chưa đề cập đến hoàn cảnh ban đầu của mỗi cá nhân ở những trình độ và điều kiện phát triển khác nhau (bao gåm thái độ của cộng đồng, động cơ hoạt động, loại hình cấu trúc thu nhập, chính trị và lịch sử

...). Theo Bourdieu (1996), Francis Fukuyama (1992), Hernando de Soto (1998) và Coleman (1988), người này học hành thành công hơn người kia không thể giải thích một cách thông thường rằng họ thông minh hơn hoặc siêng năng đèn sách hơn người khác, mà sự thành công đó còn phụ thuộc vào những cơ may như thu nhập, thị trường và kể cả những gì mà họ sở hữu, trong đó có các mối liên hệ xã hội thuộc phạm trù và khái niệm về vốn xã hội.


Vốn xã hội chính là giá trị của nguồn lực cá nhân tồn tại trong quan hệ gia đình, xã hội, cộng đồng, hệ thống chính trị và quy phạm xã hội. Vốn xã hội đề cao tầm quan trọng của các truyền thống xã hội, vai trò công dân và chủ trương sử dụng hệ thống các chính sách công như một giải pháp và phương tiện để bổ sung và củng cố cho những truyền thống, nhằm khắc phục sự thất bại của các mô hình kinh tế dựa trên sự hợp nhất các nhân tố phi thị trường vào chung hành vi ứng xử có tính chính trị và văn hoá của các cá nhân và các nhóm lợi ích. Vì vậy, ngược lại với vốn con người nằm trong mỗi cá nhân (nên khi người ta ở trong hay ra khỏi một ngữ cảnh xã hội nào đó thì vốn con người cũng đi kèm theo chứ


không còn lại trong ngữ cảnh), vốn xã hội lại nằm ngay trong mối quan hệ giữa các cá nhân và các nhóm cá nhân, chứ không phải là giữa các cá nhân với nhau. Vốn xã hội cho phép nhận ra tiềm năng của vốn con người. Vốn xã hội không phải là thứ để bán, nó cũng không phải là tài sản của một ai đó. Vốn xã hội làm cho vốn con người tồn tại và được sử dụng, phát huy. Đây chính là sự khác nhau cơ bản giữa vốn xã hội và vốn con người. Vốn xã hội coi việc học tập không phải là để đạt được những kỹ năng và tri thức của cá nhân mà là một chức năng của các mối quan hệ xã hội có thể nhận biết được. Nó thu hút sự chú ý tới vai trò của các tiêu chuẩn và giá trị trong việc thúc đẩy học tập, trong việc đạt được những kỹ năng và khai thác những bí quyết công nghệ mới. Một xã hội có thế mạnh về vốn xã hội thì sẽ có khả năng thúc đẩy việc học tập suốt đời và tạo ra nhiều lợi ích nhất.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.

Nhằm bao hàm được cả vốn cá nhân và vốn xã hội trong chính sách phát triển GDĐH, đồng thời để tăng hiệu sử dụng các nguồn lực xã hội khan hiếm mà GDĐH tiêu dùng và nâng cao sự đóng góp ngày một lớn hơn của GDĐH vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội trong nền kinh tế chuyển đổi, chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT có một số nguyên tắc cơ bản sau đây:


Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 7

- Chính sách phải có tính cộng đồng. Theo ý nghĩa của từ này, nội dung xuyên suốt của của chính sách phải phù hợp và bảo đảm thống nhất quyền lợi cho toàn bộ hệ thống GDĐH, không phân biệt đó là cơ sở đại học thuộc sở hữu của nhà nước hay của tư nhân. Nguyên tắc này xuất phát từ chức năng của GDĐH đối với phát triển kinh tế-xã hội trong mỗi quốc gia. GDĐH vừa là phương tiện duy trì, bảo vệ cho nền văn hoá; vừa là tác nhân thay nền văn hoá và là động lực cho sự phát triển kinh tế; là phương tiện để hiện thực hoá khát vọng của tập thể,


nên GDĐH luôn luôn mang tính cộng đồng, dù trường đại học đó là công hay tư, và dù nguồn thu của trường đó từ nguồn NSNN hay từ người học, người sử dụng lao động hoặc từ cả hai nguồn này. Vì vậy, GDĐH chủ yếu phải được điều hành bởi những người thuộc bộ máy quyền lực của nhà nước (những nhà hành pháp, lập pháp hoặc những quan chức chính phủ được bầu cử hoặc không, hay những người có quyền lực để gây ảnh hưởng tới trường đại học…), hơn là bởi các giảng viên hay ban quản lý của chính trường đó. Thông qua những chính sách chung cho cả cộng đồng như luật pháp, quy định, chỉ thị hướng dẫn, khẩu hiệu hô hào của chính phủ, hoặc điều kiện cần để nhận tiền cấp từ ngân sách nhà nước…để thực hiện việc thay đổi cách hành xử, thái độ của giảng viên, sinh viên và các nhà quản lý. Các công cụ này được kết hợp với các chính sách giám sát trực tiếp của chính phủ như việc bổ nhiệm hoặc phế truất hiệu trưởng (hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng danh dự), hoặc dưới sự quản lý trực tiếp của chính phủ như sự giám sát của Bộ trưởng về chi phí, chỉ định chọn giảng viên, thăng cấp hay thậm chí còn xem xét cả chương trình học.


- Chính sách phải có tính mở rộng. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nhu cầu học tập đại học của xã hội ngày càng tăng do quy mô tăng dân số; sự thay đổi về tỷ lệ độ tuổi đi học đại học đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế khoa học kỹ thuật hiện đại và mang tính cạnh tranh cao; sự đô thị hoá và sự giàu có. Nó còn là nhu cầu không ngừng nâng cao kiến thức chuyên ngành bắt nguồn từ xu hướng rất tự nhiên trong nghề nghiệp vì muốn có địa vị cao nhờ học thêm để có bằng cấp, hay sự tiêu dùng GDĐH trong những nền kinh tế thịnh vượng hơn.


- Chính sách phải có tính phù hợp. Thập kỷ 90 đã chứng kiến một chương trình cải cách chính sách phát triển GDĐH toàn cầu theo hướng tăng cường tính


phù hợp, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và quản lý ở các trường đại học và những tổ chức GDĐH khác. Điều đáng lưu ý trong tính phù hợp của chính sách phát triển GDĐH là sự hình thành những mô hình tương tự nhau ở những nước có hệ thông kinh tế chính trị khác nhau và truyền thống giáo dục đại học khác nhau, và ở những giai đoạn phát triển công nghệ và công nghiệp khác nhau. Do đó, dường như có sự giống nhau giữa những nước đã hình thành hệ thống giáo dục đại học của mình theo Châu Âu đại lục, Anh, Mỹ, Liên Xô cũ hoặc theo những mô hình tự do. Có những điểm giống nhau trong sự khác biệt về hệ thống kinh tế chính trị và sự giàu nghèo. Có những điểm tương tự trong chương trình cải cách của các nước có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất và được ưa chuộng, chủ yếu là giáo dục công lập hoặc tư nhân, hay giữa các nước tương đối giàu hay cực kỳ khó khăn.

- Chính sách phải có tính thị trường. Nguyên tắc này cho phép GDĐH tìm kiếm những nguồn hỗ trợ khác ngoài nguồn của chính phủ. Định hướng thị trường có hàm ý liên quan đến học phí (một nguồn thu quan trọng để hỗ trợ chi phí đào tạo), lệ phí (một nguồn thu đáng kể, thậm chí là trọn vẹn để hỗ trợ cho những chi phí phi đào tạo như phòng ở, tiền ăn) và nhu cầu về nghiên cứu, giảng dạy thông qua quỹ hỗ trợ hay hợp động kinh tế; phát triển khu vực tư nhân, bao gồm cả việc thành lập những trường đại học phi lợi nhuận và những trường mang tính sở hữu tư nhân; sự phân cấp theo vùng, hay sự uỷ quyền từ chính phủ trung ương đến từng khu vực. Việc dựa nhiều hơn vào các tín hiệu thị trường sẽ dẫn đến sự chuyển đổi quyền ra quyết định không chỉ từ chính phủ mà còn từ các trường đại học, đặc biệt từ giảng viên, người tiêu dùng và khách hàng (sinh viên, doanh nghiệp hay cộng đồng nói chung). Tất cả những điều đó sẽ giúp cho


GDĐH tăng hiệu quả, đồng thời đạt được sự công bằng lớn hơn và một mối liên kết hợp lý hơn giữa những người chi trả và những người được hưởng lợi ích.

Để đạt được tính thị trường, chính sách cần hướng tới việc đẩy mạnh sự hợp tác giữa các cơ sở GDĐH với nhau và giữa các cơ sở GDĐH với lĩnh vực sản xuất kinh doanh; khuyến khích phát triển ngày càng tăng của khu vực tư nhân; thay đổi quá trình đào tạo để thích ứng tốt hơn với thị trường lao động; và thực hiện quá trình phi tập trung hóa trong quản lý GDĐH.


1.2.1.3. Quy trình xây dựng chính sách phát triển giáo dục đại học


Như tất cả các loại chính sách khác trong đời sống xã hội, việc xây dựng chính sách phát triển GDĐH trong nền kinh tế bất kỳ thường theo một tiến trình vận động nhất định: xây dựng chính sách, quyết định chính sách, thực thi chính sách, đánh giá chính sách và điều chỉnh chính sách. Có thể gọi chung tiến trình này là chu trình hay quá trình hình thành chính sách phát triển GDĐH. Một cách tổng quan, quá trình hình thành chính sách phát triển GDĐH là quá trình phân tích, đánh giá về nhu cầu và mục đích, bối cảnh kinh tế-xã hội, ý đồ mong muốn của nhà quản lý; về các điều kiện và nguồn lực, các tác động và hệ quả có thể xảy ra, những dự báo định tính và định lượng v.v…của một loại vấn đề nào đó mong muốn đưa vào áp dụng để phát triển GDĐH . Trên cơ sở đó tiến hành soạn thảo văn bản thể hiện nội dung và hình thức của vấn đề theo các quy định hành chính và phù hợp với hệ thống thể chế để cấp có thẩm quyền ra quyết định triển khai vào cuộc sống. Các văn bản dự thảo có thể đưa ra nhiều phương án khác nhau với cách đánh giá, so sánh của từng phương án, các ý kiến góp ý của các bên có liên quan, các tầng lớp xã hội và các kế hoạch thực thi chi tiết trước khi trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Quá trình hình thành chính sách phát


triển GDĐH có ý nghĩa cực kỳ quan trọng quyết định đến sự ra đời, có hiệu lực và đi vào cuộc sống của một chính sách nhất định trong lĩnh vực GDĐH. Chất lượng chính sách được quyết định thông qua quá trình hình thành chính sách. Một quá trình hình thành chính sách không hợp lý có thể đưa đến một chính sách kém chất lượng, không hiệu quả và thường đi đến phá sản.


Quá trình hình thành chính sách phát triển GDĐH có thể chia thành 2 giai đoạn: Thiết kế chính sách và áp dụng, điều chỉnh chính sách.


- Giai đoạn thiết kế chính sách. Đây là giai đoạn đưa chính sách vào nghị trình xây dựng chính sách của các cấp hoạch định chính sách. Nó bao gồm các hoạt động: i). Xác định nhu cầu xã hội đối với chính sách thông qua việc đánh giá các hiện tượng hay vấn đề thực tiễn phát sinh đối với GDĐH; ii). nghiên cứu ban đầu để chỉ ra mục tiêu cần xử lý và đề xuất sơ bộ giải pháp; iii). sắp xếp để đưa từng loại công việc hoặc từng danh mục vấn đề vào nghị trình chính sách; thuyết minh nhu cầu chính sách và các giải pháp thay thế; iv). thực hiện việc nghiên cứu chính thức để lên các kịch bản giải pháp; và v). chọn giải pháp và ra quyết định ban hành chính sách.


- Giai đoạn áp dụng và điều chỉnh chính sách là giai đoạn củng cố và phát triển giá trị của chính sách (Anderson, 1978). Về nguyên tắc, chính sách khi đưa áp dụng vào thực tế phải góp phần thúc đẩy GDĐH phát triển phù hợp với mục tiêu mong muốn của chính sách. Tuy nhiên, trên thực tế, đôi khi việc áp dụng chính sách mới mặc dù không gây ra những hậu quả xấu nhưng không đạt được mục tiêu hay ý định ban đầu của người quyết định chính sách, hay gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho các đối tượng chịu sự tác động và thụ hưởng


chính sách, hoặc không có đủ các điều kiện, nguồn lực để tiếp tục thực thi chính sách. Giai đoạn áp dụng và điều chỉnh chính sách thường bao gồm các hoạt động: i). Thực hiện và theo dõi việc thực hiện chính sách; ii). điều chỉnh và bổ sung chính sách; iii). đề ra chính sách hay giải pháp mới theo sự xuất hiện các yếu tố phát sinh trong quá trình thực hiện chính sách; và iv). đánh giá kết quả chính sách.


1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách phát triển giáo dục đại

học


1.2.2.1. Môi trường luật pháp


Hệ thống luật pháp là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo cho tăng trưởng, cơ cấu và chất lượng của phát triển GDĐH. Đây được xem như một hệ thống các công cụ hướng dẫn hoạt động của các đối tượng mà chính sách phát triển GDĐH nhằm tới và là biểu hiện ý chí của các quan hệ sản xuất khách quan của một xã hội nhất định trong quan hệ kinh tế cụ thể giữa các cá nhân với nhau trong lĩnh vực GDĐH nói riêng và xã hội nói chung. Đó cũng là những dấu hiệu của quyền uy của một nhà nước cai trị. Là kiến trúc thượng tầng đứng trên những quan hệ kinh tế đã hình thành, pháp lý đến lượt mình là nhân tố thúc đẩy và định hướng cho các mối quan hệ tương hỗ trong xã hội. Nó có thuộc tính củng cố, cũng như thúc đẩy, kích thích, tạo điều kiện , dù là ít nhất, cho sự phát sinh của các mối quan hệ tương hỗ mà những người lập chính sách đang hướng tới.


Môi trường luật pháp với khung pháp lý hoàn chỉnh và hệ thống các văn bản pháp quy minh bạch điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH sẽ đảm bảo và giúp cho thị trường này hoạt động an toàn, bảo vệ


được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường. Hệ thống pháp luật đầy đủ sẽ hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất công trong xã hội nói chung, trong lĩnh vực GDĐH nói riêng. Chỉ có dựa trên một hệ thống các công cụ luật pháp đầy đủ và vững chắc, nhà nước mới có thể điều tiết xã hội thực hiện phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng bảo đảm công bằng xã hội cho các nhóm lợi ích bình đẳng trước cơ hội nhập học; mặt khác, chỉ khi có một hệ thống luật pháp vững chắc thì nhà nước mới có thể xây dựng được những cơ chế, chính sách tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương cho các chủ thể tham gia quản lý và điều hành các hoạt động GDĐH để huy động và phát huy các nguồn lực xã hội phát triển GDĐH.


Trong điều kiện kinh tế thị trường, một môi trường luật pháp phù hợp đòi hỏi phải xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Mọi công dân có quyền tự do đầu tư thành lập các cơ sở đào tạo đại học và đào tạo những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển, cũng như trong cung cấp và tiếp nhận thông tin. Nhà nước chỉ thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn đối với việc đào tạo một số ngành nghề quan trọng, thiết yếu, một số mục tiêu, một số địa bàn, không phân biệt thành phần kinh tế. Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền của các trường đại học công lập và bảo đảm cho các trường đại học công lập được thật sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động đào tạo, cạnh tranh và chấp nhận rủi ro. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của đội ngũ cán bộ giảng dạy, quản lý với kết quả hoạt động của trường đại học.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/09/2022