xét trên phạm vi xã hội, cũng như gia đình và mỗi cá nhân thông qua hệ thống các cơ quan kế hoạch từ trung ương đến địa phương và trường đại học. Trong nền KTTT, nhà nước giữ vai trò giám sát hệ thống GDĐH. Nó cung cấp một môi trường tạo khả năng thực hiện chính sách GDĐH hơn là điều khiển trực tiếp bằng các mệnh lệnh hành chính. Nhà nước có khung pháp lý quy định rõ ràng; đồng thời có hệ thống công cụ làm đòn bẩy kích thích để thực hiện chính sách (chẳng hạn điều chỉnh mối quan hệ giữa tín hiệu hoạt động của thị trường lao động và số lượng tuyển sinh hoặc sử dụng học bổng và chính sách cho vay sinh viên, cũng như các quá trình phân bổ nguồn lực, kiểm định chất lượng đào tạo để kích thích sinh viên...). Nhà nước giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường đại học công lập; thực hiện phân cấp, phân quyền quản lý ở các lĩnh vực quan trọng, bao gồm cả quyền xác định học phí, tuyển dụng và sa thải nhân sự. Song song với tăng cường tính tự chủ là quá trình đổi mới nội dung và phương pháp quản lý đáp ứng nhu cầu thay đổi để đưa đại diện của khu vực tư nhân vào quản lý trường đại học công; thúc đẩy sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn giữa các ngành công nghiệp và các trường đại học; thiết lập sự liên kết giữa các trường đại học và công ty hoặc bổ nhiệm công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học đối với các nhà chuyên môn đang làm việc trong khu vực sản xuất...Chính sách phát triển GDĐH trong nền kinh tế chuyển đổi vừa coi trọng các công cụ thiết kế và thực thi chính sách trong nền kinh tế thị trường, vừa đề cao vai trò quản lý của nhà nước. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh GDĐH bị áp lực ngày càng tăng lên của quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa, sự phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông và sự ra đời của nền kinh tế dựa trên tri thức, đặc biệt GDĐH ở các nước đang phát triển .
Không có quốc gia nào trên thế giới hiện nay mở ra thị trường tự do cạnh tranh thực sự trong giáo dục và đào tạo nói chung, GDĐH nói riêng. Bởi vì, khi GDĐH hoạt động theo cơ chế thị trường tự do thì trường đại học sẽ bị chi phối bởi thu nhập và chi phí. Điều này sẽ định hướng các cơ sở đào tạo đến thị trường ngắn hạn, đặc biệt tập trung vào hướng nghiệp và nghiên cứu ứng dụng. Kết quả là, một cách khách quan, mục tiêu về các giá trị chân chính, lâu dài của giáo dục tự do, cũng như tham vọng về những tìm tòi lý thuyết cơ bản sẽ bị phá hỏng.
1.1.4. Tầm quan trọng của chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thị trường
Từ các cách triếp cận trên đây, chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT định hướng XHCN phải bảo đảm sản phẩm GDĐH vừa là một loại hàng hoá đặc biệt, vừa không phải là hàng hoá. Tính hai mặt này của GDĐH không mẫu thuẫn với nhau mà bổ sung cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Vì vậy, một mặt chính sách phải làm cho GDĐH đáp ứng nhiều hơn với nhu cầu của thị trường để hoạt động của trường đại học trở lên hiệu quả hơn và nói chung, GDĐH có khả năng thích nghi và sáng tạo hơn. Mặt khác, chính sách phải phát huy được vai trò định hướng và hỗ trợ của nhà nước đối với phát triển GDĐH.
Theo Alexei Matveev (2000), chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT có những nhiệm vụ và định hướng chung là: Giữ gìn nguyên tắc công bằng xã hội; đảm bảo tính đa dạng của hệ thống; nâng cao hiệu quả kinh tế thông qua việc giới thiệu sự tác động của thị trường vào môi trường giáo dục; đảm bảo chất lượng đào tạo và trách nhiệm giải trình của trường đại học trước xã hội. Tuy nhiên, hiệu năng thị trường, công bằng xã hội và tính da dạng của hệ
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 3
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 4
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 5
- Quy Trình Xây Dựng Chính Sách Phát Triển Giáo Dục Đại Học
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 8
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 9
Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.
thống thường có những mâu thuẫn nội tại và có tác động qua lại, hạn chế lẫn nhau.
Vai trò quan trọng của chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT là ở chỗ, trong cùng một lúc phải tối đa hoá được tất cả các lợi ích. Để đạt được điều đó, chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT, trước hết, phải thể hiện là phương tiện để xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và GDĐH nói riêng; đồng thời nó cũng là một trong các yếu tố quan trọng xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế trong môi trường biến động. Nó thừa nhận một cách tự nhiên và tôn trọng các lợi ích cá nhân với những mục tiêu kinh tế độc lập và địa vị pháp lý bình đẳng.
Cạnh tranh được xem là một quy luật tồn tại tất yếu, là nền tảng phát triển. Trong nền KTTT, cung và cầu của thị trường (chứ không phải kế hoạch tập trung) đóng vai trò nền tảng trong phát triển, phân phối và sử dụng các nguồn lực xã hội. Quan điểm chi phí cực tiểu và đạt lợi ích tối đa, cả về phương diện cá nhân và xã hội, được lấy làm thước đo cho việc tính toán, xem xét lựa chọn và đưa ra quyết định đầu tư một ngành, nghề hay lĩnh vực đào tạo cụ thể nào đó. Khi những người nghèo không có cơ hội và điều kiện tiếp cận GDĐH, nhà nước thông qua các chính sách phát triển điều chỉnh lại mức độ thụ hưởng các giá trị định hướng trong các quan hệ xã hội giữa các thành viên trong cộng đồng, cả về phương diện vật chất, cũng như về phương diện tinh thần. Nhà nước sử dụng công cụ chính sách phát triển GDĐH để tác động, can thiêp vào quá trình vận động của hệ thống GDĐH nhằm loại bỏ hoặc hạn chế những ảnh hưởng xấu của cơ chế thị trường; bảo vệ lợi ích công cộng của GDĐH. Hiệu quả của sự can thiệp này không
thể tính ngắn hạn, mà được bù đắp lâu dài bằng năng suất lao động xã hội dựa trên sức sản xuất mới.
Chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT là không gian để nhà nước triển khai áp dụng hệ thống thể chế định hướng cho GDĐH phát triển theo đúng mục tiêu và tạo lòng tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển GDĐH; đồng thời nó còn là cơ sở tạo ra một sân chơi bình đẳng, rộng rãi cho các đối tác trong toàn xã hội tham gia phát triển GDĐH. Thực tế của các nước phát triển chỉ ra rằng, GDĐH chỉ có thể phát triển bền vững, lành mạnh và đúng định hướng trên nền tảng của một hệ thống thể chế, pháp luật đầy đủ, ổn định. Với ý nghĩa đó, việc hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, các quy phạm điều hành quản lý GDĐH ở cấp vĩ mô cần được tiến hành thường xuyên để theo kịp với quá trình phát triển của kinh tế-xã hội. Hệ thống thể chế mới phải ngày càng tăng cường chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước, đồng thời nâng cao quyền chủ động cho các cơ sở đào tạo. Nhà nước chỉ nên thể hiện vai trò, chức năng của người trọng tài điều khiển hơn là trực tiếp tham gia vào cuộc chơi trong không gian của thị trường.
Chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT có vai trò tạo lập môi trường GDĐH thuận lợi, an toàn và bình đẳng. Nó được biểu hiện thông qua các yếu tố như: hạ tầng cơ sở tốt, hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định, nền hành chính rõ ràng và bộ máy công quyền trong sạch, lành mạnh... Những yếu tố trên đều do nhà nước (và chỉ có nhà nước) tạo dựng nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước đáp ứng mục tiêu phát triển GDĐH. Môi trường GDĐH thuận lợi còn thể hiện ở sự lành mạnh, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong lĩnh
vực GDĐH; xóa bỏ sự độc quyền dù là độc quyền nhà nước hay độc quyền tư nhân.
Chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT định hướng XHCN có vai trò bảo hộ hệ thống GDĐH. Để thị trường dịch vụ GDĐH phát triển, nhà nước cần có sự bảo hộ hợp lý đối với một số lĩnh vực và ngành, nghề đào tạo. Bởi vì, Nhà nước là chủ thể quản lý cao nhất, là người đại diện cho quyền lợi của cả cộng đồng quốc gia, chỉ có Nhà nước mới có đủ tư cách, sức mạnh, tiềm lực để thực hiện quyền bảo hộ. Thông qua các cơ quan bảo vệ pháp luật và bộ máy hành chính, nhà nước có trách nhiệm bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực GDĐH như: quyền sở hữu (dù là sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân), quyền tự do đào tạo theo pháp luật quy định, bảo vệ bản quyền, thương hiệu nhà trường... Theo nghĩa bao quát hơn, hình thức bảo hộ của Nhà nước còn được thể hiện ở sự bảo hộ hệ thống GDĐH trong nước trước sự cạnh tranh từ bên ngoài, bảo vệ những quyền lợi của công dân, các tổ chức trong nước khi có sự tranh chấp với các tổ chức, các cơ sở đào tạo nước ngoài, trong xu thế toàn cầu hóa và quốc tế hóa giáo GDĐH ngày càng tăng.
1.2. NỘI DUNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Nội dung của chính sách phát triển giáo dục đại học
1.2.1.1. Các bộ phận cấu thành nội dung của chính sách phát triển giáo dục đại học
Có nhiều quan niệm khác nhau về cơ cấu nội dung của chính sách phát triển GDĐH. Trong luận án này tác giả nghiên cứu nội dung chính sách phát triển GDĐH trên ba phương diện là chính sách tăng trưởng, chính sách cơ cấu và chính sách chất lượng GDĐH.
Chính sách tăng trưởng GDĐH là chính sách đảm bảo tăng quy mô sản phẩm GDĐH. Nó được đo lường bằng chỉ tiêu tăng số sinh viên đại học hàng năm.
Chính sách cơ cấu GDĐH là chính sách đảm bảo tỷ lệ của hệ thống GDĐH. Nó thường được đo lường bằng các chỉ tiêu tỷ lệ giữa các trình độ, ngành nghề, xã hội, địa bàn hoạt động vùng miền... của nhân lực.
Chính sách chất lượng GDĐH là chính sách đảm bảo đáp ứng nhu cầu và khả năng cung ứng chất lượng sản phẩm của hệ thống GDĐH.
Giữa các nhóm vấn đề có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại thúc đẩy lẫn nhau; chính sách này vừa là tiền đề, điều kiện, vừa là kết quả của chính sách kia. Chính sách tăng trưởng GDĐH là mục tiêu hàng đầu mà chính sách phát triển GDĐH phải hướng tới. Bởi lẽ đó là mục tiêu tự thân của chính sách phát triển. Muốn có phát triển phải có tăng trưởng.
Tuy nhiên, phát triển không chỉ có tăng về quy mô mà còn phải đảm bảo sự cân đối trong cơ cấu theo những tỷ lệ phù hợp. Theo đó, việc đổi mới cơ cấu tạo nên một mạng lưới các cơ sở đào tạo đại học đa dạng và phân hóa về mục tiêu, sở hữu; có sự liên thông và liên kết làm cho hệ thống được mềm dẻo, vừa đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực trình độ cao, vừa gia tăng khả năng lựa chọn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập của đông đảo người dân, kể cả ở những địa
phương thuộc vùng sâu, vùng xa, góp phần giải quyết tính công bằng xã hội, sự bình đẳng giới, bình đẳng giữa các dân tộc về hưởng thụ GDĐH. Do vậy đòi hỏi phải chú trọng tới chính sách cơ cấu.
Đồng thời muốn có sự tăng trưởng lâu dài, bền vững, phải có được chính sách đảm bảo chất lượng. Chính vì thế chính sách chất lượng là nền tảng của các nhóm chính sách. Nó được dựa trên quan điểm: chất lượng phải đa dạng và được chuẩn hóa, hiện đại hóa cho từng phương thức đào tạo trên các mặt chương trình, nội dung, khả năng liên thông, chuyển tiếp; phát triển năng lực tự học, học suốt đời, chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ và giao tiếp ứng xử. Chất lượng GDĐH có liên quan chặt chẽ đến chương trình, phương pháp đào tạo; kiểm tra đánh giá; chất lượng đội ngũ giảng viên và các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng cho yêu cầu đào tạo. Một trong những nội dung quan trọng trong chính sách chất lượng là triển khai hệ thống đảm bảo chất lượng với những tiêu chí đánh giá và quy trình kiểm định chất lượng, được thực hiện dựa trên quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội của các cơ sở đào tạo đại học. Đi kèm theo chính sách chất lượng là các chính sách về tuyển chọn người học, công bằng xã hội và xây dựng đội ngũ giảng viên.
1.2.1.2. Các nguyên tắc của chính sách phát triển giáo dục đại học trong nền kinh tế thị trường
Trong nền KTTT, quan hệ cung-cầu lao động trong thị trường lao động tác động đến mô hình phát triển nguồn nhân lực nhờ ảnh hưởng của cấu trúc tiền công, cơ cấu hệ thống đào tạo nghề nghiệp, cũng như kỳ vọng của mỗi cá nhân
về lợi ích đưa lại từ GDĐH. Cơ chế KTTT là động lực kích thích việc cung cấp sản phẩm GDĐH cho thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ. Ngược lại, biểu thị sự cạnh tranh tương đối giữa những người tốt nghiệp từ các chủng loại và cấp bậc đào tạo chuyên môn, nghề nghiệp khác nhau khi tham gia thị trường lao động và lợi nhuận của các doanh nghiệp thu được nhờ áp dụng khoa học công nghệ chính là những tín hiệu phản hồi cho mỗi trường đại học để điều chỉnh kế hoạch hoạt động. Thông thường, ưu thế cạnh tranh của những loại sinh viên dư thừa hoặc chỉ biết vận hành những công nghệ lạc hậu sẽ giảm xuống, kéo theo sự giảm sút nhu cầu về cơ hội GDĐH đối với các loại sản phẩm đó.
Với cách tiếp cận này, chính sách phát triển GDĐH phải đặt trọng tâm vào nội dung kinh tế và nhấn mạnh đến tính hiệu quả-cái mà Adam Smith (1786), Schultz (1961), Gary Becker (1964) và Woodhall (1995) gọi chung là nguồn vốn con người, bao gồm tri thức, kỹ năng, năng lực và đặc tính ở mỗi con người để tạo ra sức mạnh cá nhân, xã hội và kinh tế; là một trong bốn khoản thuộc phần vốn cố định mang lại lợi tức hoặc lợi nhuận mà không phải luân chuyển hoặc thay đổi chủ sở hữu. Nó là một trong các nguồn lực xã hội và cũng là kho tài sản thuộc sở hữu của mỗi cá nhân; là các thuộc tính mà người ta có thể đầu tư vào để nhận được một khoản thu nhập giống như tiền lãi. Vốn con người giống như phương tiện sản xuất vật chất (nhà máy và máy móc). Đầu tư vào vốn con người có ý nghĩa cho sự phát triển kinh tế giống như đầu tư vào nhà máy và trang thiết bị vật chất. Đầu tư vào vốn con người không chỉ làm tăng năng suất lao động cá nhân, mà còn tạo ra cơ sở kỹ thuật cho lực lượng lao động cần thiết để tăng trưởng kinh tế. Có thể nói, học thuyết về vốn con người tạo ra một khung phân