Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 8


1.2.2.2. Chính sách đầu tư


Muốn có sản phẩm, muốn tăng trưởng, muốn có cơ cấu và chất lượng sản phẩm giáo dục phải có đầu tư. Do đó chính sách đầu tư là vấn đề nền tảng để thực hiện chính sách phát triển GDĐH. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới chính sách tăng trưởng, cơ cấu và chất lượng GDĐH.


Đầu tư phát triển cho GDĐH phải bao gồm cả ba yếu tố cơ bản đó là điều kiện cơ sở vật chất, đầu tư tài chính và đầu tư về đội ngũ giảng viên. Thiếu một trong ba yếu tố này không thể có được sản phẩm GDĐH như mong muốn.


Đầu tư cơ sở vật chất bao gồm cả về đất đai, cơ sở vật chất như trường lớp, hệ thống học liệu, thư viện, phòng thí nghiệm, nhà ở sinh viên và nhà làm việc,... cho các cơ sở GDĐH.


Đầu tư về tài chính nhằm đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động thường xuyên của các cơ sở GDĐH. Nó liên quan đến nguồn thu, quan điểm đầu tư công cộng và mô hình phân bổ, cấp phát của chính phủ. Chính sách tài chính GDĐH trong nền KTTT vận hành dưới mô hình có tính phổ biến. Thứ nhất, GDĐH công lập miễn phí hoặc với học phí thấp. Nhà nước đóng vai trò là nhà đầu tư chủ yếu để phát triển nền GDĐH công lập, hoặc chỉ yêu cầu một phần đóng góp khiêm tốn từ người học và gia đình thông qua nguồn thu học phí. Thứ hai, thu hồi chi phí đại học bằng việc cho sinh viên vay và hoàn trả sau tốt nghiệp. Mô hình này xây dựng trên cơ sở có sự tham gia của các thành phần tư nhân và nhiều sinh viên, cũng như gia đình họ không muốn chi trả học phí theo cung cách truyền thống. Thứ ba, gia tăng học phí kết hợp với mở rộng các chính sách hỗ trợ. Theo mô hình này, học phí của GDĐH được tính toán sao cho có

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.


thể bù đắp một phần đáng kể các chi phí hoạt động của nhà trường, đồng thời mở rộng các chính sách hỗ trợ học phí đối với các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Gia tăng học phí được xem như một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẻ chi phí giáo dục. Trong thực tế, các quốc gia thực hiện giải pháp này theo những cách khác nhau. Cuối cùng là mở rộng hệ thống đại học tư. Đây được xem như một giải pháp giúp chia sẻ chi phí đại học và đồng thời đáp ứng nhu cầu học đại học ngày một gia tăng.

Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 8


Đầu tư đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý. Chính sách này đòi hỏi các cơ sở GDĐH phải có trách nhiệm đào tạo đội ngũ giảng viên và quản lý cơ hữu của mình.


1.2.2.3. Công tác tổ chức quản lý.


Công tác tổ chức quản lý cả tầm vĩ mô và vi mô có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển GDĐH


Ở tầm vĩ mô, trước hết phải cần đến một thể chế tổ chức phù hợp; thừa nhận tính độc lập và sự bình đẳng của các tổ chức, đơn vị bằng việc tôn trọng và xác nhận quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động và mối quan hệ giữa chúng; giảm bớt việc kiểm soát mang tính tập trung của chính quyền theo truyền thống đối với việc phê duyệt các chương trình đào tạo và giáo trình giảng dạy. Trên thực tế, có thể hiểu cách làm này là một hình thức nhà nước bán thị trường GDĐH hơn là định hướng thị trường GDĐH đến người tiêu dùng. Các cơ quan trung ương có thể hoạt động như một đại diện cho lợi ích của người tiêu dùng, thay mặt người tiêu dùng ký kết hợp đồng với các tổ chức đào tạo. Với cách làm như vậy, tác dụng của việc tái phân bổ quyền sở hữu lên hành vi thị


trường trong lĩnh vực GDĐH sẽ đạt được hiệu quả cao hơn; phải đặt ra yêu cầu thiết kế nhóm các yếu tố thuộc cấu trúc thị trường, bao gồm thuế và trợ cấp, tự do hóa thị trường, kích thích thị trường và nhóm yếu tố quản trị thị trường, bao gồm công cụ điều tiết giá cả, điều chỉnh số lượng và cung cấp thông tin.


Vấn đề đặt ra là, Nhà nước thông qua chức năng tổ chức và quản lý vĩ mô, phải thiết kế được chính sách quản lý phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường. Chính sách quản lý thể hiện vai trò, chức năng, mối quan hệ tác động qua lại giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan hoạch định chính sách với hệ thống GDĐH và sự chấp hành của các cơ sở đào tạo với các quy định quản lý, bao gồm công tác điều hành, kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động của cả hệ thống, cũng như trong từng cơ sở đào tạo về các mặt: quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ sở đào tạo đại học; công tác tài chính-kế toán và hiệu quả sử dụng nguồn lực; công tác xã hội hóa và huy động nguồn lực đầu tư GDĐH; phát triển mạng lưới các cơ sở đào tạo tư thục. Chính sách quản lý GDĐH và những quy định quản lý hành chính GDĐH thường có chung một chủ thể (chính phủ, các tổ chức hành chính và các cơ quan thực hiện chính sách) và khách thể (người dân, các cơ sở đào tạo đại học và các tổ chức giáo dục đào tạo nói chung) thực hiện; đồng thời có cùng những giải pháp về tài chính, tiền tệ, pháp quy….nên cần có sự phân biệt.


Việc phân biệt chính sách quản lý GDĐH với quản lý hành chính đại học được dựa vào tính linh hoạt, tính thời gian của các thủ pháp chính sách áp dụng và phải phù hợp với cơ chế kinh tế hiện hành. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, chính sách quản lý phải chuyển sang quản lý vĩ mô, sử dụng hệ thống luật pháp và các chính sách vĩ mô để định hướng, điều tiết các cơ sở đào


tạo và thị trường sản phẩm dịch vụ đào tạo là chính. Cần hạn chế và đi đến từ bỏ các thủ pháp quản lý bằng cách can thiệp vào hoạt động của các cơ sở đào tạo. Cần nhận thức đầy đủ vai trò tự chủ của các cơ sở đào tạo và trao cho họ quyền tự chủ nhiều hơn trong hoạt động chuyên môn của mình. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự thận trọng cần thiết nhất định khi đem các cơ chế được xem là kết quả biện chứng sau quá trình kiểm nghiệm thực tế vào thực hiện mà không xuất phát từ nền tảng lý luận và phương pháp luận xây dựng chính sách. Cũng không nên đồng nhất chính sách quản lý GDĐH với chính sách quản lý kinh tế mặc dù chính sách quản lý GDĐH là một bộ phận cấu thành của chính sách quản lý kinh tế; đặc biệt trong nền KTTT, khi mà chính sách quản lý GDĐH sử dụng một số yếu tố thị trường như quan hệ cung-cầu, cạnh tranh, chi phí và hiệu quả…


Cuối cùng là đội ngũ làm chính sách đủ về số lượng, được đào tạo cơ bản; có đầu óc tổ chức thực hiện vấn đề, am hiểu, bản lĩnh, trách nhiệm với khả năng phát hiện và năng lực gải quyết vấn đề nhanh, chính xác với tinh thần đổi mới tư duy trong quản lý GDĐH. Những người làm chính sách phải biết kêu gọi, vận động, thuyết phục và lôi kéo mọi người dân ủng hộ và thực hiện chính sách phát triển GDĐH cả trước và sau khi nhà nước ban hành chính sách. Họ đại diện cho chính quyền để đưa ra các lời kêu gọi, hô hào, lôi kéo nhân dân ủng hộ một chính sách hay hoạt động bất kỳ trong lĩnh vực GDĐH vì tính đại diện cộng đồng của của nó. Họ phải nhân danh lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia, vì tương lai phát triển của đất nước, vì điều này điều kia tốt đẹp cho nhân dân…để đưa ra những lập luận thuyết phục lôi kéo quần chúng.


Ở tầm vi mô, là phải nâng cao năng lực tổ chức quản lý của các cơ sở thực thi chính sách phát triển GDĐH. Đây là điều kiện cho chính sách phát triển


GDĐH được triển khai thành công. Liên quan đến vấn đề này, trước hết, các cơ sở phải tuân thủ những quy định luật pháp và các chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước. Phải chủ động năng cao năng lực quản lý trong lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu khoa học của giảng viên, cán bộ nghiên cứu và sinh viên. Ở đây, các cơ sở đào tạo phải quan tâm đến đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm đào tạo.


Cần nói thêm rằng, trong lĩnh vực đào tạo, nội dung chương trình và phương pháp đào tạo đại học giữ vai trò nòng cốt trong việc gắn kết GDĐH với những chuyển biến thường xuyên ở các thị trường lao động cả ở bên trong và bên ngoài lãnh thổ quốc gia trong quá trình hợp nhất của nền kinh tế thế giới, sự phát triển công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin), cũng như những vấn đề thương mại và di cư quốc tế. Để làm điều đó, chương trình và phương pháp giáo dục đại học trong nền KTTT phải bảo đảm sự cân bằng giữa đào tạo đại cương, đào tạo kỹ thuật và đào tạo nghề nghiệp. Trong quá khứ, người ta cho rằng mục đích của GDĐH là dạy cho sinh viên những kiến thức chuyên môn, chuẩn bị cho họ tham gia một số nghề nghiệp nhất định. Vì vậy, có hiện tượng rất phổ biến là sinh viên khoa học biết rất ít về khoa học nhân văn và ngược lại, sinh viên khoa học nhân văn hầu như không biết gì về công nghệ. Việc dạy và học rất thiếu chủ động. Nói theo một cách khác, phạm vi kiến thức của sinh viên khá hẹp, phương pháp đào tạo thụ động. Điều này làm hạn chế tư duy của sinh viên và hạn chế sự phát triển tương lai của họ.


Do đặc trưng của KTTT, chương trình GDĐH cần đưa nội dung giáo dục định hướng phát triển vào giảng dạy cùng với những kiến thức công nghệ và kỹ năng thực hành nghề nghiệp để những người tốt nghiệp thuận lợi trong việc thích


ứng với quá trình đổi mới sản xuất và quan tâm thường xuyên đến chất lượng đào tạo. Nó còn phải đáp ứng được yêu cầu mở rộng quy mô đào tạo; nâng cao vai trò của giáo dục thường xuyên; thúc đẩy phương pháp đào tạo mở; tạo điều kiện cho việc học từ xa và học lưu động; giúp cho sinh viên tự chuẩn bị trình độ ngoại ngữ để tham gia vào quá trình công nhận học thuật đa phương đối với các loại bằng cấp và chứng chỉ của các cơ sở đào tạo ở ngoài nước, hoặc để được làm việc ở các thị trường lao động khác nhau. Muốn vậy, chương trình giảng dạy của các trường đại học và cao đẳng phải được thiết kế đa dạng và linh hoạt. Phương pháp đào tạo phải dành cho sinh viên sự chủ động. Số các khóa học tùy chọn phải chiếm một tỷ lệ lớn trong các khóa học để sinh viên các bộ môn khoa học tự nhiên có thể tham gia các khóa học về khoa học nhân văn và ngược lại. Về phương pháp đánh giá và thi cử, có thể đưa điểm của những khóa học tùy chọn thành điều kiện bắt buộc để xét tốt nghiệp cho sinh viên.


Tuy nhiên ngay cả lĩnh vực này cũng phải có sự phân định và trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở đào tạo. Bởi lẽ, sản phẩm đào tạo là của từng cơ sở đào tạo. Không có chung sản phẩm đào tạo của một quốc gia, mà đó là sản phẩm của mỗi trường nhất định, gắn liền với thương hiệu, với uy tín của trường đó.


2.2.2.4. Môi trường quốc tế


Bên cạnh các nhân tố trên, môi trường quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với chinhs ách phát triển giáo dục đại học. Vai trò đó thể hiện ở chỗ, trong lúc thực hiện việc bảo hộ hệ thống giáo dục trong nước, xu hướng quốc tế hóa cũng đòi hỏi phải hướng đến mục tiêu khai thác mọi tiềm năng bên ngoài để phát triển GDĐH. Theo Avis et al. (1996), trong xu thế toàn cầu hóa, để không bị


mất độc lập và chủ quyền kinh tế, lãnh thổ quốc gia, chính phủ cần duy trì quyền kiểm soát giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, nếu đóng cửa trong hoạch định chính sách phát triển GDĐH sẽ tạo ra sự lạc hậu của hệ thống. Hơn mọi lĩnh vực trong nền kinh tế, lĩnh vực GDĐH cần phải hướng ra thế giới bên ngoài, tiếp cận những tinh hoa của thế giới trong lĩnh vực KH và CN, GD và ĐT.


Mở rộng cửa ra thế giới bên ngoài và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, trao đổi quốc tế thực chất là quá trình thực hiện quốc tế hoá nền GDĐH, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, uy tín và sức cạnh tranh với các hệ thống GDĐH thế giới. Nó có vai trò thúc đẩy quá trình hiện đại hoá và nâng vị thế của cả hệ thống GDĐH. Nó cũng là phương tiện tốt nhất tạo ra thế chủ động trong việc chống lại chủ nghĩa thực dân mới trong học thuật. Thông qua hội nhập và mở cửa hợp tác quốc tế từng bước điều chỉnh cấu trúc và cải cách GDĐH theo hướng cạnh tranh quốc tế; phấn đấu đạt được các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng đào tạo và học thuật. Các trường đại học được tự hơn và các chương trình giảng dạy, cũng như các hoạt động nghiên cứu khoa học được đổi mới và thúc đẩy hơn để vươn tới trình độ toàn cầu. Đội ngũ giảng viên, các học giả và nhà nghiên cứu có động cơ vươn lên đáp ứng các tiêu chuẩn học thuật quốc tế và thường xuyên tham gia vào các quan hệ và hoạt động quốc tế. Các sinh viên được giáo dục về các hiểu biết và sự thích ứng trong thị trường lao động quốc tế.


1.3. KINH NGHIỆM CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI


1.3.1. Chính sách phát triển giáo dục ở các nước phát triển, đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi


Các nước Tây Âu (Anh, Pháp, Ý...), Mỹ, Canađa và Nhật Bản thuộc nhóm các nước phát triển. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, cho đến cuối những năm 50 của thế kỷ XX chính sách phát triển GDĐH của những nước này vẫn theo đuổi tính tinh hoa với việc áp dụng những điều kiện thi tuyển ngặt nghèo; coi trọng và khuyến khích sử dụng phương pháp giảng dạy đề cao tính độc lập của mỗi cá nhân. Trường đại học là một tháp ngà khoa học; là nơi thực hiện các công trình nghiên cứu mang nặng tính hàn lâm và tiến hành các chương trình đào tạo cho số ít người được đánh giá là ưu tú nhất. GDĐH chưa có sự gắn kết chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Bắt đầu từ những năm 1960 và tiếp tục kéo dài đến ngày nay, chính sách phát triển GDĐH trên thế giới nói chung, ở các nước có nền KTTT nói riêng đã có những thay đổi to lớn, hướng đến mục tiêu triển khai và mở rộng các chương trình cải cách mang tính cộng đồng. GDĐH được coi là phương tiện vừa để duy trì, bảo vệ và phát triển văn hoá, vừa là tác nhân thay đổi văn hoá và là động lực cho sự phát triển kinh tế đất nước; là phương tiện hiện thực hoá khát vọng của cộng đồng. Sự thay đổi này, một mặt, là do sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin-truyền thông, sự hình thành nền kinh tế tri thức. Mặt khác, nó còn là kết quả của sự phát triển của những bậc học phổ thông (giáo dục phổ cập và giáo dục trung học), sự tăng dân số và tình trạng di dân trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Trên nền tảng đó, các chính phủ đặt ưu tiên cao vào chính sách mở rộng quy mô đào tạo đội ngũ lao động có trình độ đại học về kỹ thuật, nghiệp vụ và kỹ năng làm việc trong môi trường thường xuyên thay đổi và trình độ kỹ thuật-công nghệ liên tục đổi mới. Nhờ đó quy mô sinh viên đại học ở các nước phát triển có nền KTTT đã tăng lên nhiều lần trong hơn 40 năm qua. Từ năm 2001 đến năm 2004, tỷ lệ tăng trưởng quy mô sinh viên đại học bình

Xem tất cả 251 trang.

Ngày đăng: 13/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí