trí tuệ và sản xuất thử nghiệm có tính chất kinh doanh. Cơ chế cạnh tranh giữa các trường đại học trong nghiên cứu khoa học và hoạt động đào tạo xuất hiện. Hệ thống trường đại học tư thục thuộc sở hữu tư nhân ra đời. Về công tác quản lý, quản trị và hành chính, hệ thống GDĐH đòi hỏi phải được vận hành một cách có hiệu quả hơn. Đây chính là các yếu tố và những tác nhân của quá trình hình thành thị trường dịch vụ GDĐH.
Theo P. Williams (1996), thị trường dịch vụ GDĐH có một số ưu điểm chính. Một là, thị trường làm cho GDĐH đáp ứng tốt hơn nhu cầu của phát triển kinh tế - xã hội. Sự ra đời của thị trường dịch vụ GDĐH từng bước giảm bớt sự tham gia trực tiếp của chính phủ trong hoạt động điều hành trường đại học; chuyển quyền ra quyết định từ bộ, trường và khoa sang sinh viên và gia đình; gắn kết các trường đại học với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp thông qua cơ chế đặt hàng đào tạo, thành lập trường đại học trong các công ty lớn hay lập các công ty dịch vụ hoặc kinh doanh bên trong trường đại học, đồng thời các giáo sư, giảng viên đại học có thể làm việc bán thời gian ở các doanh nghiệp...Hai là, thị trường làm cho GDĐH có khả năng thích nghi và sáng tạo hơn. Một phần tài chính đại học được chia sẻ từ cha mẹ sinh viên hoặc sinh viên- những người được hưởng lợi cuối cùng của GDĐH. Hệ thống thị trường giải quyết các vấn đề về trách nhiệm giải trình và rủi ro thông qua hợp đồng. Các quan hệ thị trường lâu dài, từ 4 đến 6 hoặc 8 năm học đại học thúc đẩy hợp tác và lòng tin.
Tuy nhiên, thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH cũng đầy rẫy những rủi ro và bất trắc. Nó có thể làm xói mòn trách nhiệm xã hội, văn hóa và các mục tiêu của GDĐH. Vì nó chỉ đáp ứng các lợi ích và chi phí mà thực tế xuất hiện trong
quan hệ cung-cầu của người mua và người bán nên trong ngắn hạn, với việc tập trung vào hướng nghiệp và nghiên cứu ứng dụng, nó có thể phá hỏng các mục tiêu và giá trị của giáo dục tự do và những tìm tòi lý thuyết cơ bản. Theo Leslie và Johnson (1974), cơ chế giá trong thị trường dịch vụ GDĐH có thể dễ bị bóp méo. Winston (1992), dưới một khía cạnh khác, cho rằng hạn chế của thị trường dịch vụ GDĐH là tình trạng không phân bổ. Theo ông, các trường đại học là các tổ chức phi lợi nhuận nên mặc dù có thể có thu lợi nhuận nhưng không thể phân phối lợi nhuận này cho những bên có quyền lợi liên quan. Lợi nhuận chỉ có thể sử dụng trong phạm vi trường đại học phù hợp với sứ mạng và nhiệm vụ được xác định sẵn. Quá trình phân bổ nội bộ phần nhiều không phụ thuộc vào các điều kiện thị trường. Theo Peston (1989) và Gorard (1997), một đặc điểm nữa của thị trường dịch vụ GDĐH là không giới hạn giá cả và cung cấp thông tin. Nó trái ngược với các mô hình thị trường tân cổ điển và là một thị trường độc quyền có ít người bán, tiền lãi tăng lên theo tỷ lệ đầu ra. Thị trường dịch vụ GDĐH không phải lúc nào cũng là cụ thể; vừa cạnh tranh hoàn hảo, vừa không hoàn hảo nên nó rất đa dạng và có mối quan hệ qua lại với nhau. Gordon Winston (1992) gọi thị trường dịch vụ GDĐH là thị trường uỷ thác vì thông tin không đối xứng.
Với những tính chất và đặc trưng hoạt động của thị trường dịch vụ GDĐH như đã trình bày trên đây, không có và không thể có thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH theo đúng nghĩa. Cấu trúc thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH bị ảnh hưởng bởi những điều kiện kinh tế-xã hội cơ bản, cũng như khuôn khổ pháp luật chung mà trong đó hệ thống GDĐH vận hành. Coulson (1996) nhận xét: không có quốc gia nào hiện nay mở ra thị trường cạnh tranh và tự do thực sự trong GDĐH bởi vì trước hết, việc đo lường giá trị đích thực của dịch vụ GDĐH là rất
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 1
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 2
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 3
- Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 5
- Các Bộ Phận Cấu Thành Nội Dung Của Chính Sách Phát Triển Giáo Dục Đại Học
- Quy Trình Xây Dựng Chính Sách Phát Triển Giáo Dục Đại Học
Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.
khó. Bên cạnh đó giá cả của dịch vụ GDĐH không thể chỉ xác định dựa trên chi phí trực tiếp của người dạy. Ngoài ra, GDĐH là thuộc tính sản phẩm công, chịu ảnh hưởng ngoại biên thuận. Người mua sản phẩm dịch vụ GDĐH không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân, mà còn mang lại lợi ích cho xã hội.
Tính chất vừa là sản phẩm hàng hóa, vừa là sản phẩm công cộng là nét đặc trưng cơ bản nhất của sản phẩm dịch vụ GDĐH. Tính chất này có ý nghĩa quan trọng đối với chính sách phát triển GDĐH. Nó đòi hỏi chính sách phát triển GDĐH phải bao hàm tính công bằng, tính phù hợp, tính hiệu quả trong nội dung và tính thực tiễn, tính xã hội, tính phê phán, tính cưỡng chế trong quy trình chính sách.
1.1.2. Khái niệm chính sách phát triển giáo dục đại học
Với bất kỳ một hoạt động nào của con người có ý thức, của một tập thể, một tổ chức hoặc nói rộng ra là của một xã hội, đều nhằm thực hiện một mục tiêu cụ thể nào đó. Tuy nhiên, để đạt được mong muốn này không chỉ phụ thuộc vào ý chí tự thân, những tiềm năng và năng lực bên trong của mỗi cá nhân hay xã hội, mà còn chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố khách quan, bên ngoài khác nhau, chẳng hạn như quy tắc đạo đức, truyền thống văn hoá, thể chế chính trị, tự nhiên, môi trường...mà các chủ thể chịu tác động. Vì vậy, khi tiến hành các hoạt động, người ta thường phải có những giải pháp, chiến lược, sách lược, kế hoạch, phương pháp hoặc những cách thức xác định theo một cách nhất định nào đó nhằm thực hiện bằng được các mục đích đã định sẵn. Muốn vậy, mỗi cá nhân, tổ chức hoặc xã hội phải có một chuỗi chương trình hay một tập hợp các
nguyên tắc hành động định trước để hướng dẫn thực hiện. Người ta gọi chung đó là chính sách.
Theo K. James và I. Scoones (1999), chính sách là một công cụ có tính
ước lệ và không rõ ràng, hàm chứa nhiều nội dung phức tạp được biểu hiện dưới nhiều góc độ, khía cạnh và diễn ra theo những chiều hướng khác nhau, nhưng có liên quan và tác động qua lại với nhau. Vì vậy, rất khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác, duy nhất về chính sách. Việc định nghĩa chính sách cũng giống như định nghĩa một con voi. Khi nhìn thấy con voi, người ta biết đó là con voi, nhưng để định nghĩa được nó thì không phải là đơn giản.
Một cách thông dụng, người ta thường hiểu chính sách là chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị-xã hội [61; tr.155]. Bên cạnh cách hiểu theo nghĩa hẹp trên đây, thuật ngữ chính sách có thể hiểu theo nghĩa rộng bao hàm không chỉ những biện pháp cụ thể, mà còn bao hàm các chủ trương lớn, đường lối hoặc phương hướng chiến lược của một quốc gia, thể hiện quan điểm, thái độ ứng xử trong quá trình xử lý các vấn đề trong nước và quốc tế.
Theo một số cách hiểu khác, chính sách là các quyết định hiện hành của cơ quan quản lý, dựa vào đó để điều hành, kiểm tra, phục vụ và tác động đến mọi việc trong phạm vi quyền lực có được. Nó là các tiêu chuẩn của cách hành xử được đặc trưng bởi tính kiên định và có quy tắc trong một số lĩnh vực trọng yếu. Chính sách là sự định hướng các hàmh động mong muốn; là cách xử lý được thừa nhận thông qua quyết định chính thức của chính quyền; là sự xác định ý định và mục đích; là đầu ra, là kết quả tổng hợp của tất cả các kết quả hành động,
cách quyết định và cách cư xử của các cấp quản lý. Chính sách là kết quả của hệ thống hoạch định và thực thi trong quản lý. Chính sách là quyết tâm chiến lược dùng để giải quyết hoặc làm cho tốt hơn một vấn đề trong thực tiễn của đời sống xã hội.
Một cách tổng quát nhất, chính sách có thể được hiểu là một chuỗi các trình tự diễn ra, hoặc tập hợp các hoạt động diễn ra theo một trật tự nhất định, kèm theo phương tiện bao gồm các giải pháp, biện pháp và điều kiện vừa có tính khuyến khích, vừa có tính cưỡng bức để truyền đạt, triển khai và thực hiện những ý tưởng, mục đích, mục tiêu và thái độ của một tổ chức, một thế lực hay một đại diện của nhóm lợi ích cụ thể nào đó đối với các tổ chức, các cá nhân hay các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội. Nói cách khác, chính sách là sự truyền đạt ý định của người ra quyết định theo một ý nghĩa thông thường, hướng người thực hiện vào những hành động cụ thể cđa một vấn đề nào đó nhằm đạt được mục đích dự kiến. Chính sách cũng có thể được hiểu là một kế hoạch, một chương trình hay dự án có tính chất quyết định và định hướng những hành động; là sản phẩm của một nhà nước, một tổ chức, một nhóm người hay của mỗi cá nhân. Quá trình chính sách là quá trình xác định, xếp đặt những lựa chọn và ưu tiên khác nhau để đưa ra những quy tắc và quy định về các vấn đề chính trị, quản lý, tài chính và hành chính nhằm đạt được những mục đích cụ thể.
Chính sách còn được hiểu là một tập hợp những thủ thuật, giải pháp, biện pháp trong ngắn hạn và dài hạn nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề có tính chiến lược, chiến thuật hướng tới cộng đồng, đáp ứng cộng đồng vì mục tiêu phát triển. Chính sách không phải là các quyết định hay thông báo ngẫu nhiên mà phải bao gồm một chuỗi hoạt động nằm trong một hệ thống có trật tự xác
định; có mục tiêu dù ngắn hạn hay dài hạn; được xây dựng trên cơ sở luật pháp và do cơ quan, đơn vị hoặc nhóm cá nhân được pháp luật giao cho quyền hạn và trách nhiệm thực hiện. Như một kết quả, chính sách luôn luôn bị phụ thuộc vào quan điểm chính trị của nhà cầm quyền, của người thiết kế chính sách. Chính sách là hệ thống các hoạt động có mục đích của một chính quyền. Vì vậy, chính sách có thể có tác động tốt, hoặc chưa tốt đến toàn bộ hay một bộ phận dân cư. Mục tiêu của chính sách thường được xác định theo những chủ đề xã hội, bao gồm việc xác định các sự kiện hay vấn đề cần xử lý; thiết kế công cụ xử lý; chuẩn bị tổ chức, nhân lực và tài chính để thực hiện; điều chỉnh hoặc thay đổi nội dung không còn phù hợp và đánh giá các vấn đề tiếp tục phát sinh từ các chính sách hiện hữu. Chính sách có thể được phân loại theo các tiêu chí khác nhau. Mỗi cách phân loại nhằm phục vụ cho một ý đồ phân tích nhất định.
Phân loại theo bản chất, có chính sách thụ động và chính sách chủ động. Chính sách thụ động là chính sách đưa ra nhằm xử lý các tình huống mới phát sinh hay đang được cảnh báo về sự phản ứng của nhân dân, của xã hội trong quá trình triển khai một luật lệ, một quy tắc hay một chế tài nào đó; hoặc để bổ sung, chi tiết hoá, diễn giải cho rõ nghĩa hơn, sửa sai cho phù hợp hơn đối với một chính sách đã có nhằm đáp ứng yêu cầu của một nhóm người, nhóm lợi ích chính trị hay giải quyết những khó khăn dưới bất kỳ hình thức nào mà người ra quyết định, cơ quan lập chính sách đang phải đối đầu. Chính sách chủ động là chính sách nhằm xử lý các vấn đề dài hạn do bộ máy lãnh đạo, cầm quyền chủ động đưa ra khi chưa có nhu cầu cụ thể, hoặc có nhưng mới chỉ được nhận biết ở những giai tầng xã hội có trình độ tri thức và học vấn cao, hay những người sở hữu thông tin đầu tiên.Việc đưa ra chính sách chủ động, dài hạn mang tính
khách quan và là trách nhiệm của người cầm quyền. Vì vậy, chính sách chủ động đạt hiệu quả cao hay thấp, trước hết, phụ thuộc vào tầm nhìn và tri thức của người lãnh đạo. Sau đó là đội ngũ những người làm chính sách, bao gồm các chuyên gia thiết kế chính sách và đội ngũ công chức thực thi chính sách. Cuối cùng là phải có nguồn thông tin dồi dào và các kết quả dự báo có tính khoa học, đáng tin cậy. Chính sách chủ động gồm có nhiều chính sách bộ phận.
Phân loại theo thời gian thực hiện, có chính sách ngắn hạn và chính sách dài hạn. Chính sách ngắn hạn thích ứng với các tình huống hoặc điều kiện xã hội biến động. Chính sách dài hạn đáp ứng cho các nhu cầu khó thay đổi của con người và xã hội thuộc lĩnh vực nhận thức hay những phạm trù cơ bản của con người và thiên nhiên tồn tại một cách khách quan (đất đai, tài nguyên, môi trường và lãnh thổ...). Theo cấp độ ảnh hưởng, có chính sách cho toàn thể và chính sách cho bộ phận. Theo khu vực áp dụng, có chính sách khu vực công, chính sách khu vực tư và chính sách khu vực nước ngoài. Theo định hướng phát triển, có chính sách cấp tiến và chính sách bảo thủ. Theo hiệu quả, có chính sách thực chất hay chính sách thủ tục. Theo hình thức, có chính sách phân bổ các loại dịch vụ công cộng, chính sách tái phân bổ, chính sách điều tiết và chính sách tự điều tiết. Theo phương pháp triển khai, có chính sách cưỡng chế và chính sách thuyết phục. Theo không gian, có chính sách đối nội và chính sách đối ngoại....Dù là bằng cách nào, việc phân loại chính sách chỉ nhằm giúp cho người nghiên cứu chính sách dễ tiếp cận với quy trình thiết kế chính sách. Vì vậy, việc phân loại chính sách thường phụ thuộc vào sự quan tâm của mỗi người đến mục tiêu, đối tượng, chính trị, đạo đức, tính hình thức hay thực tế...khi tiến hành nghiên cứu chính sách.
Có một số nguyên tắc cơ bản trong thiết kế chính sách. Trước hết, chính sách phải hướng về cộng đồng và phục vụ cho lợi ích công cộng. Thứ hai, chính sách phải được quản lý và bắt buộc thực hiện.Thứ ba, chính sách phải có tính hệ thống. Thứ tư, chính sách là tập hợp các quyết định. Thứ năm, chính sách phải có tính liên đới. Thứ sáu, chính sách phải có tính kế thừa. Cuối cùng, chính sách phải được quyết định theo đa số [53, tr.144-170].
Phát triển là quá trình thay đổi của một hiện tượng, sự vật. Phát triển GDĐH là quá trình lớn lên, tăng lên, mở rộng ra về mọi mặt của hệ thống GDĐH trong một quốc gia. Nó bao gồm sự tăng trưởng về quy mô, sự hoàn chỉnh về cơ cấu, thể chế và sự tăng tiến về chất lượng và hiệu quả đào tạo. Khái niệm phát triển GDĐH thuộc nội dung của phạm trù phát triển bền vững. Đó không chỉ là sự phát triển trong hiện tại, mà còn là những đảm bảo cho quá trình tiếp tục trong tương lai xa. Sự phát triển đòi hỏi phải đạt được cả về hiệu quả kinh tế, công bằng xã hội và sự bảo vệ, gìn giữ môi trường văn hóa. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các nhóm lợi ích, giai tầng xã hội và mỗi người dân... phải bắt tay nhau thực hiện dung hòa những vấn đề chính trị-kinh tế-xã hội-văn hóa của đất nước. Phát triển GDĐH bền vững là mục tiêu hướng tới của tất cả các quốc gia trên thế giới, nhưng mỗi quốc gia dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phát triển phù hợp nhất với quốc gia đó. Phát triển GDĐH là một quá trình tiến hóa diễn ra theo thời gian và do những nhân tố bên trong của hệ thống quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó.