Những Kinh Nghiệm Trong Lựa Chọn Tiếp Cận Nội Dung Và Định Hướng Chính Sách


học phí và sự hỗ trợ tài chính của các lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Nhà nước khuyến khích phát triển các cơ sở đào tạo được điều hành theo kiểu doanh nghiệp tư nhân và các cơ sở đào tạo tư thục. Với sự khuyến khích và hỗ trợ của chính phủ, các trường ngoài công lập phát triển nhanh trên khắp Trung Quốc. Việc thành lập các trường tư thục, một mặt, góp phần giảm bớt áp lực tài chính đối với chính phủ. Mặt khác, các trường tư thục cung cấp nhiều cơ hội giáo dục hơn cho học sinh tốt nghiệp phổ thông. Có thể nói rằng, ở một mức độ nhất định thì sự tồn tại của các cơ sở GDĐH tư thục đã thu hẹp khoảng cách giữa cung và cầu trong lĩnh vực GDĐH. Ngoài ra, sự phát triển của các trường tư thục đã mang lại những tác động tích cực cho nền kinh tế Trung Quốc, vì nó kích thích chi tiêu của người dân.


Đánh giá một cách chung nhất, mặc dù GDĐH Trung Quốc đã đạt được một số tiến bộ và thành công trong quá trình đổi mới, nhưng trên thực tế, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại. Chẳng hạn, trường đại học vẫn còn đào tạo các chuyên ngành hẹp và cấu trúc môn học bất hợp lý. Nội dung giảng dạy, cấu trúc của khóa học cũng như việc tổ chức kiến thức chưa được cập nhật và cải tiến thường xuyên. Vẫn còn những lỗ hổng giữa những gì được dạy và những gì thực tế đang diễn ra trong cuộc sống xã hội và sản xuất. Phương pháp dạy học và phương pháp sư phạm đã lạc hậu. Năm 2004 có gần 2 triệu (hơn 30%) sinh viên tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm [168]. Vì vậy, một trong các yêu cầu cơ bản đối với Trung Quốc trong những năm sắp tới là tiếp tục sự đổi mới trong chính sách phát triển GDĐH [186].


1.3.2. Những kinh nghiệm rút ra cho việc hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học ở các nước đối với nước ta


Từ chính sách phát triển GDĐH ở các nước phát triển, đang phát triển và nền kinh tế chuyển đổi có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho quá trình hình thành chính sách phát triển GDĐH Việt Nam trong nền KTTT.


1.3.2.1. Những kinh nghiệm trong lựa chọn tiếp cận nội dung và định hướng chính sách

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 251 trang tài liệu này.

- Mở rộng quy mô đào tạo đại học, chuyển nền GDĐH từ phục vụ cho số ít người ưu tú sang đáp ứng yêu cầu học tập của số đông người là xu thế mang tính thời đại. GDĐH ngày nay được định nghĩa là bao gồm “tất cả các loại hình học tập, đào tạo cho nghề nghiệp hoặc đào tạo cho nghiên cứu, được bảo đảm ở trình độ sau trung học, bởi một cơ sở đại học hoặc ở bất kỳ một cơ sở nào mà được những nhà chức trách có thẩm quyền công nhận như một cơ sở đại học”[89]. Tuy nhiên, bài học từ Trung Quốc và một số nước đang phát triển chỉ ra rằng, về xu hướng, việc phát triển quy mô GDĐH phải được đặt trong các điều kiện kinh tế-xã hội và sự bảo đảm chất lượng đào tạo để tránh tạo ra căn bệnh bằng cấp trong xã hội.

- Nguyên tắc tổ chức không gian đại học của các quốc gia nói chung được phát triển theo hướng đa dạng hoá về hệ thống nhà trường và chương trình đào tạo. Các cơ sở GDĐH từng bước phải trở thành một không gian mở thường xuyên đáp ứng cho yêu cầu học tập ở trình độ cao. Chức năng của GDĐH không chỉ là thực hiện công tác đào tạo sinh viên, mà còn mở cửa đáp ứng các nhu cầu về mọi phương diện của xã hội học tập theo nghĩa rộng nhất, đồng thời hướng tới hội nhập quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế.

Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học Việt Nam hiện nay - 11


- Phù hợp với định hướng phát triển hệ thống giáo dục đại học mới, nhận thức về chất lượng giáo dục đại học cũng có những thay đổi. Nếu chất lượng giáo dục đại học trước đây được hiểu theo nghĩa tuyệt đối thì ngày nay chất lượng trong các trường đại học là một phổ trình độ, thường được hiểu cả theo ý nghĩa tương đối và ý nghĩa tuyệt đối (Sallis-1993). Nó được đặt trong mối quan hệ phụ thuộc của những mối liên hệ khác nhau, giữa người sử dụng lao động, người cung cấp dịch vụ đào tạo và chính phủ, cũng như toàn xã hội. Theo quan điểm của Crosby (1984), chất lượng là “sự phù hợp với những yêu cầu”. Với cách hiểu này, các sản phẩm của trường đại học được xem là có chất lượng khi nó phù hợp với những yêu cầu của xã hội.

- Thiết lập nền GDĐH hiệu quả bằng việc vận hành hệ thống theo cơ chế thị trường, đẩy mạnh phát triển khu vực GDĐH tư nhân được thừa nhận như một trong những giải pháp hữu hiệu giúp cho GDĐH vượt qua những khó khăn về sự thiếu hụt nguồn lực. Tuy nhiên, song song với việc giải quyết các vấn đề quan trọng của GDĐH như cải cách, tư nhân hoá, hiện đại hóa, quốc tế hóa...thì đảm bảo công bằng cơ hội tiếp cận và quyền được học đại học cho mọi người phải được xem là yêu cầu cấp thiết.

- Chuyển từ hệ thống GDĐH tập trung mà ở đó chính phủ trung ương đưa ra các quyết định là chính, sang một hệ thống GDĐH phi tập trung, bằng cách trao nhiều trách nhiệm và quyền tự chủ hơn nữa cho các cơ sở cung ứng các dịch vụ GDĐH, nhưng không được coi nhẹ vai trò quản lý nhà nước.


- Đặt trọng tâm vào nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo; hiện đại hóa cơ sở vật chất; thường xuyên đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo;


xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên; phấn đấu xây dựng một nền GDĐH có chất lượng giảng dạy và nghiên cứu theo chuẩn quốc tế phải trở thành những nhiệm vụ thường xuyên của trường đại học.


- Nhà nước cần thiết phải có hệ thống chính sách đồng bộ đối với đội ngũ trí thức để ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám.


1.4.2.2. Những kinh nghiệm về thực hiện qúa trình xây dựng và hoàn thiện chính sách

- Làm tốt công tác dự báo đánh giá tác động kinh tế-xã hội của chính sách GDĐH sẽ được ban hành; quy định đầy đủ và chặt chẽ các yêu cầu về giai đoạn nghiên cứu chính sách trước khi lập chương trình xây dựng chính sách; đồng thời, thực hiện pháp lý hóa công tác dự báo đánh giá tác động của chinh sách.

- Nghiên cứu chính sách trên cả 2 lĩnh vực lý thuyết và thực tế; tiến hành các nghiên cứu so giữa sách chính sách phát triển GDĐH trong nước với chính sách phát triển GDĐH của nước ngoài để có có những lựa chọn phù hợp và tối ưu với điều kiện thực tiễn, nhu cầu phát triển của GDĐH Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập.

- Đảm bảo tính nhất quán và ổn định tương đối của chính sách; chính sách phát triển GDĐH phải phù hợp với định hướng chiến lược và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

- Chính sách không vì quyền lợi cục bộ của một nhóm lợi ích, một ngành hoặc một số ít người, mà phải phù hợp với quyền lợi chung và thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Chính sách phải bảo đảm tính minh bạch và có môi


trường thực hiện bình đẳng cho mọi đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách.

- Đảm bảo tính công khai của chính sách. Quá trình hình thành chính sách phải có sự tham vấn, trưng cầu ý kiến của những đối tượng bị điều chỉnh. Nói cách khác, quá trình hình thành chính sách cần áp dụng rộng rãi các phương pháp đánh giá tác động chính sách, phương pháp phân tích các yếu tố tác động vào quy trình xây dựng pháp luật của các nước tiên tiến; mở rộng các đơn vị tham gia nghiên cứu chính sách.

- Tăng cường sự hợp tác trong việc nghiên cứu chính sách giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm bảo đảm chính sách mang tính liên thông và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai chính sách vào thực tế đời sống xã hội. Đầu tư thích đáng về nhân lực và tài chính công tác xây dựng chính sách.

TIỂU KẾT CHƯƠNG I


GDĐH có vai trò phát triển và bảo đảm quyền lực dân chủ của các xã hội. Chính sách phát triển GDĐH thuộc phạm trù thể chế, chủ yếu được điều chỉnh trong phạm vi quốc gia và thường được đặt trong bối cảnh quốc tế. Nền tảng của chính sách phát triển GDĐH trong nền KTTT là lý thuyết về nguồn vốn con người, bao gồm vốn vật chất và vốn xã hội. Chính sách phát triển GDĐH ở bất kỳ nước nào cũng được hình thành từ tính chất của xã hội cụ thể, từ di sản văn hoá đến thể chế chính trị, kinh tế và xã hội của nước đó.


Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chính sách phát triển GDĐH. Nhìn nhận nó như là các bộ phận cấu thành của chính sách tăng trưởng, chính sách cơ cấu, chính sách chất lượng trong điều kiện hệ thống luật pháp phù hợp, các điều


kiện đầu tư về tài chính, vật chất, nguồn nhân lực, tổ chức quản lý thống nhất và trong môi trường quốc tế hữu hiệu sẽ giúp cho mỗi quốc gia có được một hệ thống GDĐH phát triển, đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội mỗi thời kỳ.


Một cách phổ biến, để đánh giá chính sách phát triển GDĐH, người ta thường dựa trên hệ thống các tiêu chí bao gồm: Lợi ích công cộng đạt được; mức độ cưỡng chế trong triển khai; tính hệ thống của những vấn đề chính sách nhằm giải quyết; sự linh hoạt trong các hình thức biểu hiện văn bản chính sách; phạm vi liên đới của các tổ chức và cá nhân chịu trách nhiệm; tính kế thừa của chính sách; số lượng ý kiến ủng hộ thông qua chính sách, và kết quả thụ hưởng chính sách của các nhóm lợi ích khác nhau.


Sản phẩm GDĐH trong nền KTTT được coi là một loại sản phẩm dịch vụ. Chủ đề về một số chính sách cải cách tầm quốc gia tập trung vào thị trường GDĐH mang tính cạnh tranh đang được thảo luận. Việc theo đuổi một thị trường GDĐH sẽ được kiểm chứng thông qua xem xét các biện pháp cải cách về chính sách thị trường đang được triển khai tại nhiều quốc gia. Các nhà nghiên cứu chính sách phát triển GDĐH ở hầu hết các nước trên thế giới đã và đang cố gắng điều hòa suy nghĩ chung về vấn đề trên. Họ không chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu hỗ trợ cho việc chuyển đổi chính sách, mà còn đi sâu vào tìm kiếm và nhận thức tốt hơn về cả hai mặt tác động tích cực và tiêu cực của nó.


Giữa chính sách của chính phủ và cách hành xử của xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thị trường cạnh tranh sẽ mất đi hiệu quả nếu không có sự hỗ trợ về chính sách từ chính phủ. Trong trường hợp này, GDĐH không chỉ ở riêng


quốc gia nào được coi như một sản phẩm hàng hóa của tư nhân. Vì vậy, chính phủ luôn luôn giữ vai trò kiểm soát độc quyền. Cho đến nay, tại nhiều quốc gia GDĐH vẫn được quan niệm là một loại sản phẩm công (nhà nước).


Chính sách phát triển GDĐH đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia và khu vực trong thời đại nền kinh tế dựa vào tri thức hơn bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử. Tuy nhiên, không có quốc gia nào có tất cả các câu trả lời cho những vấn đề phức tạp đối mặt với những thách thức mới của thế kỷ 21, đặc biệt là trong hệ thống GDĐH. Để tự thích nghi với tình thế, nhiều nước, kể cả các nước phát triển và đang phát triển đã cải thiện hệ thống giáo dục đại học trong những năm 90 của thế kỷ 20. Hoàn cảnh quốc gia- về mặt thực tiễn kinh tế, xã hội, chính trị và giáo dục cụ thể cũng quá phức tạp để có thể đơn giản chuyển các thể chế hoặc thậm chí ý tưởng từ nước này sang nước khác. Nhưng, các bài học từ các nước khác ít nhất có thể đưa ra cách thức tiếp cận có thể dẫn tới các giải pháp tiềm năng. Việc nghiên cứu so sánh chính sách phát triển GDĐH giữa các quốc gia có thể giúp đưa ra các phương án tiếp cận ngày một tối ưu hơn trong hoạch định chính sách phát triển GDĐH của mỗi nước.


CHƯƠNG 2


THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH

PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM


2.1. KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TỪ SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY


2.1.1. Quá trình đổi mới nội dung chính sách phát triển giáo dục đại học ở nước ta.


Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt nam lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước với việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu và bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã tạo ra bước ngoặt cho GDĐH Việt Nam. Năm 1987 Bộ Giáo dục và Đào tạo (lúc đó là Bộ Đại học-Trung học Chuyên nghiệp và Dạy nghề) lần đầu tiên tổ chức Hội nghị hiệu trưởng các trường đại học tại thành phố Nha Trang tỉnh Khánh Hoà triển khai 3 chương trình hành động của ngành, khởi động một quá trình lâu dài nhằm đổi mới nền đại học Việt Nam cho phù hợp với những điều kiện kinh tế và xã hội trong nền kinh tế chuyển đổi. Từ đây, GDĐH bắt đầu một giai đoạn phát triển theo hướng linh hoạt, đa dạng đáp ứng nhiều loại nhu cầu xã hội trong nền kinh tế nhiều thành phần và huy động nhiều kênh tài chính đầu tư. Trường đại học, cao đẳng bắt đầu được mở rộng tuyển sinh đến các đối tượng sinh viên có đủ kiến thức và đủ khả năng trả học phí. Sứ mạng GDĐH, vai trò nhà nước và các mối quan hệ, nội dung quản lý của Bộ, ngành chủ quản với trường đại học được đặt ra để xác định lại. Trường đại học được chấp nhận

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/09/2022