Sự Lãnh Đạo Của Đảng Đối Với Nhà Nước Trong Mọi Hoàn Cảnh


bước chuyển này đã đưa quyền lực nhà nước từ tay một thiểu số bóc lột là đế quốc, phong kiến sang tay nhân dân lao động.

Suy cho cùng, giải phóng dân tộc thì thời nào dân tộc ta cũng làm được. Còn lật đổ chế độ quân chủ, giành chính quyền về tay nhân dân, dựng lên chế độ dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân, thì chỉ có thời đại Hồ Chí Minh, chỉ có cách mạng Tháng Tám mới làm được. Sau khi Nhật rút khỏi Đông Nam Á, hầu như các nước trong khu vực này được giải phóng, nhiều nước đã tuyên bố độc lập, nhưng xóa bỏ nhà nước phong kiến và chế độ quân chủ chuyên chế lập nên chế độ dân chủ cộng hòa thì chỉ có ở Việt Nam.

Với bước chuyển này, nhân dân Việt Nam đã thực hiện một cuộc cách mạng với mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Cuộc cách mạng này đạt được sự tổng hòa của nhiều giá trị mà các cuộc cách mạng khác trên thế giới đã giành được: “Noi gương Cách mạng 1776 của Mỹ, Cách mạng Tháng Tám tranh tự chủ chống ngoại xâm. Cũng như Cách mạng 1789 của Pháp, Cách mạng Tháng Tám thực hành lý tưởng: Bình đẳng, Tự do, Bác ái. Theo gót Cách mạng 1911 của Tàu, Cách mạng Tháng Tám thực hiện chủ nghĩa: Dân tộc, dân quyền, dân sinh” [63, tr. 218]. Giá trị độc lập và tự do luôn song hành trong tiềm thức Hồ Chí Minh, bởi cứu nước theo Người phải gắn với cứu dân; bởi nước được độc lập mà nhân dân lao động không được hưởng hạnh phúc, tự do thì nền độc lập ấy cũng không có nghĩa lý gì. Người tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới thành quả vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được ngày 02/09/1945: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do, độc lập” [62, tr. 3]. Tự do, độc lập, đó là những giá trị thiêng liêng mà người Việt Nam phải đổi bằng xương máu và những nỗ lực không mệt mỏi. Chính vì vậy: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [64, tr. 587].

Như vậy, sự ra đời của nền chính trị dân chủ cộng hòa đã đánh dấu sự hồi sinh vĩ đại của dân tộc Việt Nam, từ một dân tộc nô lệ, Việt Nam thành một dân tộc độc lập. Lần đầu tiên trong lịch sử, quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã thuộc về nhân


dân lao động. Một dân tộc độc lập gắn với những cá nhân tự do sẽ là nguồn nội lực lớn, tạo cơ hội để dân tộc chuyển mình và hồi sinh.

3.2. Một số kinh nghiệm

Diễn biến lịch sử sau hơn một năm Cách mạng Tháng Tám thành công chứng tỏ Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề phức tạp trong chính sách đối nội và đối ngoại, củng cố và xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - biểu tượng cao nhất của nền độc lập dân tộc. Những bài học về củng cố và xây dựng chính quyền trong thời kỳ này có giá trị to lớn, là tài sản lý luận quan trọng của Đảng. Đặc biệt, trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay, với những biến động mới của lịch sử thì những bài học về củng cố và xây dựng chính quyền nhà nước thời kỳ 1945 - 1946 của Việt Nam càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Từ thực tế lịch sử những năm 1945 - 1946, có thể rút ra những bài học thiết thực trong việc xây dựng và củng cố chính quyền hiện nay:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.

3.2.1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong mọi hoàn cảnh

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng ác liệt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản xung quanh vấn đề nhà nước, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản luôn tìm mọi cách minh chứng cho tính chất “siêu giai cấp” của nhà nước, hòng lừa bịp nhân dân lao động, bảo vệ cho nhà nước phản động của giai cấp bóc lột. Giai cấp tư sản nêu ra chiêu bài “nhà nước phúc lợi chung”, một thứ nhà nước mà theo họ, bảo đảm “phúc lợi” cho tất cả mọi người, thể hiện ngày càng đầy đủ “ý chí” của nhân dân…

Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa 1945 - 1946 - 13

Đối lập với lý luận của giai cấp tư sản về nhà nước, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước. Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước là công cụ thống trị của một giai cấp nhất định. “Nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo lực dùng để trấn áp một giai cấp nào đó. Vậy thì giai cấp mà giai cấp vô sản cần phải trấn áp là giai cấp nào? Đương nhiên chỉ là giai cấp bóc lột… Những người lao động cần có Nhà nước là chỉ để trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột” [48, tr. 30, 31]. Tính chất giai cấp của nhà nước vô sản được bảo đảm thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của


giai cấp công nhân. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin đã viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân là giáo dục đội tiền phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dắt dẫn toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới…” [48, tr. 32].

Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện phức tạp của thời kỳ 1945 - 1946, trong bối cảnh thù trong giặc ngoài điên cuồng chống phá hòng lật đổ Nhà nước cách mạng non trẻ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “Đứng trước tình hình gay go và cấp bách ấy, Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn và để có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất” [65, tr. 27].

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuân thủ, vận dụng sáng tạo quan điểm mácxít - lêninnít về xây dựng một nhà nước bảo đảm sự thống nhất giữa tính dân tộc, tính nhân dân và bản chất của giai cấp công nhân. Để tránh mũi tiến công trực diện của kẻ thù, làm thất bại âm mưu “diệt cộng, cầm Hồ” (thực chất là chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản) của quân Tưởng - Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: Đảng Cộng sản rút vào hoạt động bí mật. Đây là một sách lược đúng đắn và khôn khéo mà tình thế lúc đó đòi hỏi Đảng phải dũng cảm thực hiện. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước không vì thế mà suy giảm, trái lại còn được củng cố và giữ vững trong toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thông qua hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của từng đảng viên cộng sản và các tổ chức đoàn thể quần chúng. Trong thời kỳ này, Nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng xác định là củng cố nền độc lập dân tộc, giữ vững chính quyền cách mạng, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa của nhân dân, thực hiện chính sách đối ngoại làm cho ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết. Đó là sự vận dụng luận điểm của Lênin: “Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước” [48, tr.


404]. Đảng lãnh đạo chính quyền là một nội dung, và là nội dung trọng yếu nhất của Đảng cầm quyền.

Những thành tựu mà Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành được trong hơn một năm sau Cách mạng Tháng Tám chính là thắng lợi của đường lối chính trị do Đảng đề ra và lãnh đạo thực hiện. Kẻ thù của dân tộc ta ý thức được rằng, để thay đổi bản chất của nhà nước thì trước hết phải tấn công vào Đảng Cộng sản và hệ tư tưởng cách mạng, khoa học của Đảng.

Bài học lịch sử quan trọng được rút ra “bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh” là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo vệ bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Tuy nhiên, việc bảo vệ phải được tiến hành trên tinh thần đổi mới và sáng tạo, phù hợp với tình hình cụ thể.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện tập trung trong việc: Đảng giữ quyền tổ chức, sắp xếp bộ máy nhà nước; bố trí cán bộ; đề ra đường lối, chính sách cho hoạt động của nhà nước. Trong những năm 1945 - 1946, để hạn chế đến mức thấp nhất những hành động chống phá chính quyền nhà nước non trẻ, thực hiện chủ trương đại đoàn kết dân tộc, Đảng đã chủ động mở thêm 70 ghế trong Quốc hội cho các đảng phái và một số ghế quan trọng trong Chính phủ Trung ương, nhưng không thực hiện liên hiệp ở địa phương; vì vậy, trên thực tế những vị trí đó chỉ có chức vụ, danh nghĩa chứ không có quyền hành thực sự. Đường lối đối nội và đối ngoại vẫn do Đảng đề ra. Đây là một quyết định lịch sử của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về phương pháp, đã làm hạn chế thấp nhất sự chống phá của kẻ thù. Trong giai đoạn hiện nay, khi hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi, những bài học đau xót của “đa nguyên chính trị” mà các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô để lại đã chỉ ra “không có con đường nào khác để giữ chính quyền là phải tập trung củng cố Nhà nước nhân dân vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng”.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thời kỳ này được thể hiện rõ nét trong việc Đảng lãnh đạo kiên quyết đấu tranh chống lại các âm mưu của các thế lực phản động hòng làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, âm


mưu bạo loạn, đảo chính hòng cướp chính quyền dân chủ nhân dân. Một mặt, Đảng chủ trương thực hiện đại đoàn kết dân tộc, mặt khác kiên quyết vạch mặt bọn phản động của các đảng phái tay sai của Tưởng, kiên quyết đấu tranh giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc như: không đổi tên Mặt trận Việt Minh, không thay đổi Quốc kỳ, phải cam kết: “Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết”, “Đôi bên phải ủng hộ Tổng tuyển cử”… Các tờ báo của Đảng đã vạch mặt chúng “là một bọn người giả danh cách mạng đi ôm chân núp bóng thế lực bên ngoài để lợi dụng tình thế, mưu cướp quyền lợi và địa vị riêng” [5]. Khi có đủ bằng chứng phạm tội của chúng thì kiên quyết trừng trị bằng vũ lực. Bài học lịch sử rút ra thời kỳ này là: Đảng phải chú trọng đến nhiệm vụ xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang, tổ chức quân đội trên cơ sở lòng yêu nước, sự giác ngộ lý tưởng độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đảng phải trực tiếp nắm lực lượng vũ trang (cả quân đội và công an), đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đấu tranh bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Không thể có cái gọi là “Quân đội phi chính trị” cũng như sự tồn tại của nhà nước phi giai cấp.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng những năm 1945 - 1946 là kín đáo, khôn khéo và có hiệu quả. Đó chính là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời điểm mà tình thế cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”.

Bài học về giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong thời kỳ 1945 - 1946 đã được Đảng quán triệt sâu sắc trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc từ đó đến nay. Đặc biệt, trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua, khi mà các thế lực phản động trong và ngoài nước dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền đòi Đảng phải từ bỏ vai trò lãnh đạo đối với nhà nước, đòi đa nguyên, đa đảng… Với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta đã khẳng định: Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường hiệu lực của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn. Hiệu lực


quản lý của chính quyền là thước đo năng lực và trình độ lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Cho nên phải: “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước” [19, tr. 129].

Từ thực tế lịch sử có thể khẳng định: Muốn giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng trong bất cứ tình huống nào thì Đảng phải có đường lối đúng đắn, một tổ chức Đảng vững mạnh và từng đảng viên phải luôn tiên phong gương mẫu, giữ vững lập trường của giai cấp công nhân. Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cần tránh hai nguy cơ của một Đảng cầm quyền là sự sai lầm về đường lối; sự thoái hóa, biến chất của đảng viên. Có như vậy, Đảng mới được quần chúng tin yêu và sự lãnh đạo của Đảng mới được giữ vững. Bài học này mang tính thời sự sâu sắc.

3.2.2. Xây dựng bộ máy nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân

Nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thỏa mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một nhà nước dân chủ, tiến bộ. Những lợi ích, nhu cầu đó phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ, văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội.

Dựa vào dân để củng cố và giữ vững nền độc lập dân tộc là một trong những truyền thống quý báu của lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trước âm mưu thôn tính, đồng hóa của các thế lực xâm lược phương Bắc lớn mạnh, các triều đại phong kiến tiến bộ trong lịch sử nước ta đều nhìn thấy sức mạnh ở nhân dân: “sức mạnh như sức nước”, “chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Vì vậy, một mặt phải dựa vào dân để duy trì nền độc lập, mặt khác phải biết “ khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân cũng khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Do đó “Chỉ có Chính quyền Xôviết là có thể vững chắc và có thể công nhiên dựa vào đa số nhân dân… mới có thể vững chắc, mới không thể bị đánh đổ” [49, tr. 270].


Tiếp tục phát huy truyền thống dân tộc và quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò to lớn của quần chúng trong xã hội, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dựa vào dân để giải quyết hàng loạt nhiệm vụ to lớn mà nhà nước non trẻ phải thực hiện.

Một là, dựa vào dân để củng cố nền độc lập. Chính sức mạnh của quần chúng đã tạo nên thế áp đảo của cách mạng đối với kẻ thù, làm thất bại âm mưu: “diệt cộng, cầm Hồ” của quân Tưởng và âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của quân xâm lược Pháp. Tin vào dân, dựa vào dân, nhà nước non trẻ đã đập tan những âm mưu của bọn phản động hòng gây bạo loạn, lật đổ chính quyền cách mạng.

Dựa vào dân, Đảng ta đã tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử có ý nghĩa lịch sử tạo ra thế hợp hiến, hợp pháp của nhà nước cách mạng: “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta” [62, tr. 249]. Không dựa vào dân, không được nhân dân ủng hộ, không thể có những thành quả quan trọng đó.

Hai là, dựa vào dân để phát triển kinh tế, văn hóa để ổn định đời sống nhân dân. Nhà nước cách mạng Việt Nam thực hiện chức năng lãnh đạo và quản lý đất nước sau ngày độc lập trong điều kiện tiếp nhận một nền tài chính khánh kiệt. Trong khi đó, công việc củng cố nền độc lập, phát triển kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân đòi hỏi phải có ngân quỹ. Khi chưa có một nguồn giúp đỡ nào từ bên ngoài. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dựa vào dân để xây dựng nền tài chính quốc gia, thông qua đóng góp của dân vào “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ vàng”, “Hũ gạo tiết kiệm”, công chức nhà nước không nhận lương, phát động tăng gia sản xuất, giúp đỡ nhau vượt qua nạn đói…

Tin dân, dựa vào dân và được dân ủng hộ bởi vì Đảng đã chăm lo xây dựng thiết chế bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, dân bầu ra Nhà nước, bầu ra chính quyền các cấp. Ngay sau ngày độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tổ chức “càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Tin tưởng vào sự sáng suốt của


nhân dân, Người chỉ rõ: “Tổng tuyển cử là một dịp để toàn thể quốc dân tự do chọn lựa những con người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà” [62, tr. 153]. Cho nên cần phát huy quyền tự do, dân chủ của nhân dân: “Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó” [62, tr. 153].

Cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 diễn ra trong hoàn cảnh chính trị phức tạp, nhiều đảng phái phản động gây sức ép, lừa gạt nhân dân, ở miền Nam, nhân dân đi bầu cử dưới làn đạn của quân xâm lược Pháp. Nhưng nhân dân đã chứng tỏ một thái độ chính trị hết sức rõ ràng, ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chính phủ của Cụ Hồ. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước của dân cả về phương diện pháp lý, cũng như ý nguyện tình cảm của nhân dân. Nhà nước xây dựng trên nguyên tắc bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân nên được nhân dân bảo vệ, giữ vững. Đó là một nội dung quan trọng của bài học “lấy dân làm gốc”.

Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua tổ chức của hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị, Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước quản lý xã hội, Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị - xã hội của chính quyền nhân dân. Mục tiêu của hệ thống chính trị là bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là những cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân, nếu không tiêu biểu cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân thì sẽ bị nhân dân bãi miễn.

Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ trong hoạt động của hệ thống chính trị nước ta hiện nay đã được đặt nền móng từ thực tiễn quá trình vận động cách mạng trong giai đoạn 1945 - 1946.

Nhà nước của dân biểu hiện trước hết và trên hết ở chỗ đó là Nhà nước vì dân. Ngay sau khi ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã xóa bỏ tất cả pháp luật của chế độ cũ, ban hành những văn bản pháp luật bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, mà còn tập trung đến mức cao nhất để chăm lo đời sống, phát triển văn hóa, nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. Phong trào xóa nạn mù chữ được tổ chức từ thành thị đến nông thôn đã nâng cao một bước trình độ dân trí của

Xem tất cả 150 trang.

Ngày đăng: 02/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí