đấu tranh chính nghĩa vì độc lập dân tộc của ta. Trên cơ sở khẳng định Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa là “chính quyền duy nhất hợp pháp ở Việt Nam, và là người duy nhất đã chiến đấu chống Nhật” [69, tr. 237, 238], ta yêu cầu Mỹ và Đồng minh phải công nhận Chính phủ lâm thời là “đại diện duy nhất và hợp pháp của nhân dân Việt Nam trong các vấn đề liên quan đến chủ quyền của Việt Nam” [69, tr. 237, 238]. Phương pháp ngoại giao khôn khéo cùng những lý do có tình có lý của ta đã hạn chế phần nào sự can thiệp của Mỹ vào cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng của ta trong thời kỳ đầu sau Cách mạng Tháng Tám. Chính Xanhtơni (người đại diện cho Chính phủ Pháp lúc đó) khi chứng kiến mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với những người Mỹ ở Hà Nội đã phải thốt lên rằng: “Còn đối với người Mỹ, Cụ đã tranh thủ họ, tài tình đến mức độ, khi Cụ mới nắm chính quyền, đại biểu của họ ở Hà Nội đã tận tình ủng hộ Cụ” [84, tr. 63].
Sau khi Rudơven qua đời, Chính phủ Mỹ ngả hẳn về lập trường ủng hộ Pháp xâm lược Việt Nam. Họ đã bỏ lỡ một cơ hội tốt trong việc xây dựng mối quan hệ với nhân dân Việt Nam. Tuy vậy, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn kiên trì mối quan hệ với Mỹ. Khi Mỹ công khai ủng hộ Pháp xâm lược Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta một mặt kiên quyết chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ, mặt khác luôn bày tỏ mong muốn giải quyết các tranh chấp, xung đột bằng thương lượng.
Sau khi nổ súng tiến công chính quyền cách mạng ở Nam Bộ, thực dân Pháp cố sức mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời tìm mọi cách tranh thủ sự đồng tình của các nước Đồng minh. Ngày 09/10/1945, Pháp ký với Anh hiệp định về “Quyền hành chính” của Pháp ở Việt Nam. Ngày 01/01/1946, với sự thỏa thuận của Mỹ, Đắcgiăngliơ cùng Mâubáttơn ký hiệp định về việc đế quốc Anh nhường “quyền tiếp phòng cho Pháp” ở Nam Đông Dương. Tiếp đó, Hiệp ước Hoa - Pháp ngày 28/02/1946 cho phép Pháp được quyền đem quân ra miền Bắc thay quân Tưởng. Mục đích của đế quốc Mỹ cho Pháp tái chiếm Đông Dương là nhằm lôi kéo Anh - Pháp vào mặt trận bao vây Liên Xô ở phía châu Âu, tạo điều kiện cho Tưởng Giới Thạch tập trung lực lượng đối phó với cách mạng Trung Quốc, đồng thời dùng
Pháp ngăn chặn làn sóng đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam châu Á, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, cứu vãn quyền lợi của chủ nghĩa đế quốc.
Đảng ta đã dự đoán chính xác âm mưu của thực dân Pháp. Ngay từ ngày 05/09/1945, Chính phủ lâm thời đã kêu gọi toàn dân sẵn sàng đợi lệnh chiến đấu. Để chứng tỏ thiện chí hòa bình và khẳng định quyết tâm giữ vững nền độc lập, ngày 30/12/1945, Chính phủ đã ra thông báo: “Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sẽ hân hạnh được hội đàm với đại diện của nước Pháp… nếu Chính phủ Pháp muốn trao đổi ý kiến với chúng tôi thì phải thừa nhận nền độc lập của Việt Nam như một thực tế đã có” [17, tr. 167].
Trước tình hình Pháp và Tưởng bắt tay hòa hoãn, trong Chỉ thị Tình hình và chủ trương ngày 03/03/1946, Đảng ta đã phân tích âm mưu của bọn đế quốc và tay sai, đồng thời khẳng định quyết tâm nếu Pháp chủ trương khôi phục lại chế độ thuộc địa thì “nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du kích, nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hòa” [24, tr. 43]. Chỉ thị nhấn mạnh: “Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy, mà nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta” [24, tr. 46].
Với chủ trương “hòa để tiến”: Ngày 06/03/1946, Chính phủ ta ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ, đặt cơ sở cho việc đàm phán đi tới một hiệp định chính thức. Hiệp định sơ bộ quy định Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nước tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính riêng, ở trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp; Chính phủ Pháp cũng công nhận những quyết định của một cuộc trưng cầu ý dân nhằm thống nhất ba kỳ.
Việc ký Hiệp định sơ bộ là một sách lược đúng đắn, sáng suốt của Chính phủ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, là một bước “hòa để tiến”. Ta đã lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ thực dân Pháp để buộc Pháp thừa nhận Việt Nam là một nước tự do; lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp và Tưởng để tránh phải đương đầu cùng
Có thể bạn quan tâm!
- Bộ Máy Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945 - 1946)
- Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa 1945 - 1946 - 9
- Hoạt Động Nhà Nước Nhằm Củng Cố Và Tăng Cường Thực Lực Về Mọi Mặt
- Một Vài Nhận Xét Về Thể Chế Dân Chủ Cộng Hòa Ở Việt Nam Giai Đoạn (1945 - 1946)
- Sự Lãnh Đạo Của Đảng Đối Với Nhà Nước Trong Mọi Hoàn Cảnh
- Hồ Chí Minh với việc xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa 1945 - 1946 - 14
Xem toàn bộ 150 trang tài liệu này.
một lúc với hai kẻ thù, đuổi nhanh Tưởng về nước, quét sạch bọn phản động tay sai thân Tưởng. Điều đó đã kéo dài thời gian để nhân dân ta xây dựng và phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược mà Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh biết là không thể tránh khỏi.
Hiệp định sơ bộ chưa ráo mực thì thực dân Pháp đã vi phạm trắng trợn các điều khoản về quân sự, chính trị ở các vùng trong Nam và ngoài Bắc. Chúng cho ra đời cái gọi là “Chính phủ Nam Kỳ tự trị” do Nguyễn Văn Thinh đứng đầu. Chúng đánh chiếm một số vùng của tỉnh Sơn La, chuẩn bị lập “Xứ Thái tự trị”… Ngày 11/03/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Lời kêu gọi sau khi ký Hiệp định sơ bộ, tố cáo phía Pháp có những hành động trái với tinh thần Hiệp định. Người kêu gọi nhân dân và các Chính phủ trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp ủng hộ chủ trương đấu tranh đòi Chính phủ Pháp thi hành Hiệp định sơ bộ 6 - 3. Cùng ngày, Người gửi thông điệp yêu cầu phía Pháp mở ngay cuộc đàm phán chính thức ở Pari. Chủ trương có lý, có tình, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo của ta đã góp phần bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, buộc thực dân Pháp phải nhượng bộ. Đây là một thắng lợi lớn về mặt ngoại giao: Việt Nam trên thực tế, về pháp lý có vị trí và trách nhiệm trong việc thương lượng với Pháp. Sự hiện diện của phái đoàn Chính phủ ta tại Pháp để chuẩn bị cho việc ký hiệp định chính thức ở Pari đã khẳng định về mặt pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế.
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận lời mời của Chính phủ Pháp sang thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách càng xác nhận uy tín vững chắc của Nhà nước ta. Khi đặt chân đến đất Pháp, Hồ Chí Minh nêu rõ lập trường đàm phán của Việt Nam là đòi quyền độc lập nhưng không tuyệt giao với Pháp và ở trong Liên hiệp Pháp, về kinh tế và văn hóa sẵn sàng cộng tác với Pháp, điều đó có lợi cho cả hai nước. Trong một buổi gặp các nhà báo tại Pari, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: “Việt Nam cần nước Pháp. Nước Pháp cũng cần Việt Nam. Chỉ có lòng tin cậy lẫn nhau và sự cộng tác bình đẳng, thật thà, thì mới đi đến kết quả thân thiện giữa hai nước” [62, tr. 417]. Lập trường đó nhanh chóng được sự tán thành ủng hộ của nhân dân Pháp tiến bộ.
Cuộc đàm phán chính thức Phôngtennơblô, bắt đầu từ ngày 06/07/1946 là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp trên mặt trận ngoại giao. Chính phủ Biđôn, đại diện cho các giới tư bản tài chính phản động đã tìm mọi cách phá hoại Hiệp định sơ bộ 6
- 3 và Hội nghị Phôngtennơblô, chủ trương thông qua cơ cấu Liên bang Đông Dương để giữ Việt Nam trong khuôn khổ phụ thuộc vào Pháp, thực hiện từng bước chính sách lấn dần về chính trị và quân sự ở Đông Dương. Bọn thực dân hiếu chiến ở Đông Dương lại âm mưu làm chuyện đã rồi. Chúng định nhân ngày kỷ niệm Cách mạng Pháp, tổ chức diễu binh ở Hà Nội và sử dụng một số tên Việt Quốc nổ súng vào quân Pháp để vu cáo ta, lấy cớ đánh chiếm Hà Nội. Ngày 01/08, Đắcgiăngliơ triệu tập bọn tay sai ở Lào, Campuchia, Nam Kỳ, Nam Trung Kỳ và Tây Nguyên tổ chức cái gọi là “Liên bang Đông Dương”. Phái đoàn của ta đã kịp thời lên tiếng cảnh cáo các hành động thiếu thiện chí của bọn phản động Pháp, đồng thời bày tỏ mong muốn hòa bình, hợp tác với Pháp. Nhưng chính phủ Pháp vẫn tảng lờ, Hội nghị Phôngtennơblô tan vỡ.
Trước tình thế trên, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ cần phải kéo dài thời gian để tích cực chuẩn bị đầy đủ hơn cho cuộc kháng chiến, vừa để nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới hiểu rõ thiện chí hòa bình của ta và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 14/09/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký bản Tạm ước Việt - Pháp quy định một số điều tạm thời về kinh tế, văn hóa giữa hai nước; đình chỉ chiến sự ở miền Nam và ấn định thời gian tiếp tục cuộc đàm phán vào tháng 01/1947. Việc ký Tạm ước 14/09/1946 không chỉ bày tỏ thiện chí hòa bình của ta, mà còn là một biện pháp nhằm bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng. Đảng và Chính phủ ta đã nhận thức đầy đủ rằng: “Chính sách ngoại giao thắng hay bại phần lớn ở ta, ở sức đoàn kết phấn đấu của ta, chứ không phải ở lòng tốt hay ở sự thành thật của thực dân Pháp. Chính phủ đã sử dụng đàm phán làm vũ khí sắc bén để đấu tranh với kẻ thù, phục vụ cho mục tiêu trước mắt - bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài. Mặt khác, trong đấu tranh ngoại giao, Chính phủ cách mạng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân, sử dụng những thành quả mà chúng ta vừa đạt được trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội và xây dựng lực lượng trong thời kỳ đầu sau Cách mạng Tháng Tám, sử dụng sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, tập hợp xung quanh ngọn cờ lãnh đạo của Đảng làm áp lực đối với kẻ thù” [77, tr. 139, 140].
Như vậy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thành công nghệ thuật ngoại giao để giữ vững độc lập, chủ quyền của đất nước và chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến lâu dài, … “Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược lêninnít về lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc” [18, tr. 31].
Tuy nhiên, cuộc chiến đấu trên mặt trận quân sự lúc bấy giờ mới có ý nghĩa quan trọng nhất đối với việc bảo vệ chính quyền cách mạng; vì thực dân Pháp đã quyết tâm xâm lược nước ta một lần nữa, mà cuộc chiến đấu vệ quốc lại diễn ra trong điều kiện không cân sức và rất bất lợi cho ta. Với tinh thần: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [62, tr. XI], nhân dân ta đã nhất loạt đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược theo tiếng gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 23/09/1945, trước hành động tấn công của thực dân Pháp được quân Anh ủng hộ. Xứ ủy Nam Kỳ đã họp Hội nghị ở Cây Mai (Chợ Lớn) để bàn về việc thực hiện chủ trương kháng chiến của Đảng và Chính phủ. Hội nghị đã phân tích những âm mưu, hành động xâm lược của thực dân Pháp cùng thái độ đồng lõa của thực dân Anh và quyết định phát động toàn dân tổng đình công, bãi chợ, không hợp tác với giặc Pháp. Ngày 24/09/1945, Chính phủ lâm thời đã gửi bản huấn lệnh đến nhân dân và cán bộ Nam Bộ. Bản huấn lệnh thể hiện tinh thần quyết không chịu làm nô lệ của nhân dân ta và ngay lập tức được đồng bào Nam Bộ nhiệt liệt hưởng ứng.
Đứng trước sự tấn công ồ ạt của địch, ngày 25/10/1945, Xứ ủy Nam Kỳ họp ở Thiên Hộ (Mỹ Tho) để rút kinh nghiệm chỉ đạo kháng chiến và chỉ ra những thiếu sót trong việc tổ chức các sư đoàn “Cộng hòa vệ binh”. Hội nghị vạch ra những phương hướng cần làm ngay lúc này là: Chấn chỉnh tổ chức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt, trước mắt là lãnh đạo các lực lượng vũ trang kiên trì đẩy
mạnh kháng chiến, kiên quyết khôi phục chính quyền của ta ở những nơi bị tan vỡ. Thực hiện các chủ trương đó, một số cán bộ đảng viên có nhiều kinh nghiệm đã xuống tận các địa phương để gây dựng lại cơ sở, phong trào. Chúng ta đã xây dựng những đơn vị vũ trang mới, chính quy, thực sự là lực lượng vũ trang cách mạng như: Liên quân Bà Điểm - Hóc Môn, Gò Vấp - Đức Hòa, bộ đội Thủ Khoa Huân.
Trong thời gian này, Đảng và Chính phủ đã phát động trong cả nước một phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, đồng thời tích cực chuẩn bị mọi lực lượng để đối phó với thực dân Pháp khi chúng mở rộng chiến tranh ra cả nước. Hàng vạn thanh niên đã hăng hái hành quân “Nam tiến” chiến đấu bảo vệ độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhân dân cả nước đã dốc một phần lực lượng quan trọng về tinh thần và vật chất cho cuộc kháng chiến ở Nam Bộ: “Ngày Nam Bộ”, “Phòng Nam Bộ” là những hình thức tổ chức phong phú để quyên góp thuốc men, quần áo gửi cho nhân dân Nam Bộ.
Tình hình Nam Bộ và Nam Trung Bộ có chiều hướng chuyển biến tốt, các Ủy ban cách mạng, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, Ủy ban kháng chiến Nam Trung Bộ đã lãnh đạo quân và dân ta tấn công các đồn trại của địch ở nhiều nơi và bước đầu đã thu được những thắng lợi to lớn. Ngày 09/12/1945, ở Chợ Lớn, quân và dân ta đã tiêu diệt 400 tên địch. Tại Buôn Ma Thuột, quân ta đã tiêu diệt hàng trăm tên địch và phá hủy 38 xe quân sự. Với chiến thắng đó, kế hoạch đánh chiếm Nam Bộ trong 18 ngày của Lơcléc bị phá vỡ. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ có xu hướng ngày càng phát triển có lợi cho cách mạng. Với chiến thắng đó, nền độc lập chủ quyền mà nhân dân ta vừa giành được có khả năng được giữ vững. Điều đó trước hết nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã góp phần to lớn vào việc bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ và để lại cho nhân dân cả nước những kinh nghiệm quý báu về cách tổ chức và tiến hành kháng chiến; về chiến tranh du kích và xây dựng cơ sở chính trị vùng sau lưng địch. Cuộc chiến đấu anh
dũng, bất khuất ấy đã cổ vũ lòng yêu nước, căm thù giặc và ý thức bảo vệ nền độc lập tự chủ của toàn dân tộc ta. Đồng bào Nam Bộ thực sự xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”.
Cuộc chiến đấu ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ đã chứng tỏ rằng, khi đã giành được chính quyền thì nhân dân ta quyết tâm không để rơi vào tay thực dân xâm lược. Sức mạnh đoàn kết toàn dân đã được tạo nên trong điều kiện khó khăn, gian khổ. Đường lối kháng chiến của Đảng đã chỉ ra con đường đi đến thắng lợi và niềm tin của nhân dân vào Đảng đã làm nên những chiến công to lớn trong cuộc đấu tranh giữ vững nền độc lập dân tộc.
Trong năm đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền non trẻ được tổ chức, xây dựng Đảng trước hàng loạt khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và ngoại giao. Đảng và Nhà nước đã phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, đưa đất nước thoát ra khỏi khó khăn, thử thách, lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống mới.
Với những cố gắng và nỗ lực của mình, bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương đã đảm trách tốt chức năng tổ chức quần chúng nhân dân, thực hiện mọi nhiệm vụ của cách mạng. Những cống hiến to lớn đó đã góp phần củng cố và bảo đảm cho sự tồn tại của hệ thống chính quyền, để chính quyền đó đủ sức tiếp tục đảm nhận mọi nhiệm vụ mới mà lịch sử giao phó.
Những thắng lợi trên các mặt hoạt động của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong năm đầu tiên sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công là cơ sở vững chắc để cách mạng Việt Nam bước vào cuộc chiến đấu mới - cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp.
Tiểu kết chương 2
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Đó là một nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và vì dân. “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần một trăm năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước ta…” [65, tr. 25].
Ngày 02/09/1945, Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với Bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thể quốc dân và thế giới về quyền tự do, độc lập của nước Việt Nam. Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với bộ máy đã được chuẩn bị từ trước dưới hình thức các tổ chức tiền nhà nước, tiền chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt Nam đã ra mắt quốc dân. Thể chế chính trị dân chủ cộng hòa tiến bộ được xác lập thay thế chính trị thực dân - phong kiến phản động, lỗi thời. Đây là “một cuộc thắng lợi xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử nước ta” [62, tr. 18]. Bản Tuyên ngôn độc lập là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền tảng pháp lý cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý cho quá trình đấu tranh bảo vệ và giữ vững nền độc lập, thống nhất đất nước.
Đảng Cộng sản xác định nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về Nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước đã được thể chế hoá trong bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Với Hiến pháp 1946, Đảng ta chủ trương thực hiện “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” nhằm đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo, đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
Từ 02/09/1945 đến 31/12/1946, chỉ trong vòng hơn một năm, tổ chức bộ máy nhà nước cách mạng Việt Nam đã trải qua nhiều lần cải tổ để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Với đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng từ trung ương đến địa phương trong toàn quốc cùng với hệ