Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp: Đây là nguồn vốn rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp chủ động trong đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp phải luôn dành một phần vốn nhất định để thường xuyên đầu tư đổi mới, cải tiến công nghệ, đồng thời thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ để khi cần có thể chủ động tiến hành đổi mới công nghệ. Phần vốn và quỹ này được lấy từ lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc bán, cho thuê tài sản...
Nguồn vốn từ bên ngoài: Huy động nguồn vốn tiềm năng từ dân cư. Nguồn vốn này được huy động bằng cách: phát hành cổ phiếu, trái phiếu để bán thông qua thị trường chứng khoán hoặc trực tiếp cho cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Đối với các doanh nghiệp nhà nước thì cần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa, bởi vì với hình thức sở hữu này các doanh nghiệp sẽ có điều kiện huy động và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn.
Liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp khác trong nước để thực hiện các dự án đầu tư đổi mới công nghệ đòi hỏi vốn lớn, vừa giải quyết được vấn đề thiếu vốn vừa chia sẻ được rủi ro đầu tư đổi mới công nghệ.
Doanh nghiệp phải xây dựng các đề án, chiến lược cụ thể về đổi mới công nghệ để xin hỗ trợ của Nhà nước hoặc được ưu đãi trong vay tín dụng ở ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác.
Tiến hành huy động vốn từ các cổ đông và ngân hàng thương mại. Ngoài ra doanh nghiệp có thể tiến hành tìm hiểu và tiếp cận với hình thức thuê tài chính (bên cho thuê tài chính đứng ra mua các loại động sản theo yêu cầu của doanh nghiệp và cho doanh nghiệp thuê lại trong thời gian nhất định theo thỏa thuận).
Sử dụng hiệu quả nguồn vốn tự có, vốn khấu hao để lại, vốn phát sinh từ bán hoặc cho thuê các thiết bị không sử dụng, bán giảm giá hàng hoá tồn kho, huy động vốn nhàn rỗi từ cán bộ, công nhân viên, lao động.
Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu và tạo sự liên kết về vốn giữa các thành phần kinh tế thông qua cổ phần hoá, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê…
5.4.1.4. Tăng cường đầu tư phát triển khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Chung Về Tác Động Lan Tỏa Của Fdi Tại Tỉnh Savannakhet, Lào Giai Đoạn 2010-2020
- Kinh Nghiệm Của Một Số Nước Trên Thế Giới Trong Việc Hấp Thụ Các Hiệu Ứng Lan Tỏa Của Fdi
- Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Cho Lào Trong Việc Hấp Thụ Các Hiệu Ứng Lan Tỏa Của Fdi
- Kiến Nghị Giải Pháp Với Chính Phủ Và Các Bộ, Ngành Có Liên Quan
- Hiệu ứng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại tỉnh Savannakhet, Lào - 20
- Hiệu ứng lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại tỉnh Savannakhet, Lào - 21
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra, sự chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp cùng ngành cũng như giữa khách hàng FDI đối với nhà cung cấp trong nước, và trong lĩnh vực công nghiệp làm tăng hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp trong nước. Và vì vậy các doanh nghiệp này cần nâng cao hiệu quả chuyển giao công nghệ, tận dụng tác động lan tỏa công nghệ từ các FDI. Nâng cao trình độ thiết bị công nghệ đi đôi với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là những điều kiện cơ bản để nâng cao khả năng hấp thụ tác động lan tỏa từ FDI của các doanh nghiệp trong nước.
Các doanh nghiệp trong nước phải chú trọng đầu tư cho nghiên cứu, đổi mới công nghệ. Đảm bảo tính đồng bộ trong dây chuyền công nghệ: Trong lựa chọn thiết bị, công nghệ phải tính đến tính đồng bộ giữa công nghệ hiện có với công nghệ đầu tư mới hoặc đồng bộ giữa các dây chuyền công nghệ mới được đầu tư mới với nhau. Ngoài ra cần có chính sách đào tạo hợp lý nguồn nhân lực để sử dụng công nghệ đạt hiệu quả cao.
Lựa chọn công nghệ tương đối hiện đại để tránh lạc hậu trong một khoảng thời gian ngắn. Để lựa chọn được công nghệ thích hợp, các doanh nghiệp phải đánh giá công nghệ mới tiếp nhận trên 4 nội dung cơ bản là: năng lực hoạt động của công nghệ, hiệu quả của công nghệ, trình độ kỹ thuật và công nghệ và tác động của công nghệ tới môi trường sinh thái và môi trường văn hóa xã hội của doanh nghiệp. Trên cơ sở xác định mức vốn đầu tư cho công nghệ mới và nguồn vốn huy động để mua, vận hành và quản lý công nghệ mới đó một cách hiệu quả nhất.
Việc đầu tư đổi mới công nghệ phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp, kết hợp với xem xét kiểm tra và đánh giá lại toàn bộ máy móc thiết bị. Trình độ công nghệ phải phù hợp với tay nghề của người lao động để tránh tình trạng lãng phí và kém hiệu quả. Bên cạnh đó, tập trung cải tiến công nghệ theo chiều sâu, tăng cường trao đổi với khách hàng để có bước chuẩn bị về công nghệ nhằm sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thị trường.
5.4.1.5. Xây dựng các chính sách tăng cường khả năng lan tỏa theo định hướng ngành
Kết quả nghiên cứu đối với tác động lan tỏa của FDI đến các ngành kinh tế chỉ ra có tác động lan tỏa tích cực theo chiều ngược đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp. Trong khi cả ba lĩnh vực, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đều chịu ảnh hưởng tiêu cực từ hiệu ứng cạnh tranh. Hoạt động R&D có tác động tích cực đối với ngành công nghiệp. Do vậy đối với mỗi lĩnh vực cần tận dụng lợi thế, khắc phục hạn chế của mình để nâng cao hiệu quả của hiệu ứng lan tỏa FDI. Các biện pháp được đề xuất là:
- Đối với lĩnh vực công nghiệp: Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp chịu tác động lan tỏa tích cực từ khách hàng FDI và hoạt động R&D. Tuy nhiên lại chịu ảnh hưởng tiêu cực từ hiệu ứng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp cùng ngành. Do vậy, để phát huy tính tích cực, nhóm doanh nghiệp này cần tiếp tục liên kết làm nhà cung cấp với các doanh nghiệp FDI. Tiếp tục đáp ứng và hoàn thiện hơn nữa sản phẩm, dịch vụ của mình. Một trong những giải pháp là cần nâng cao trình độ lao động, sử dụng công nghệ cao, phù hợp với sản phẩm của mình nhằm đáp ứng kỳ vọng của các khách hàng FDI. Bên cạnh đó hoạt động chuyển giao công nghệ cũng như R&D cũng cần được chuyên sâu nghiên cứu, triển khai. Đối với một số nhóm ngành công nghiệp như sản xuất kim loại, chế tạo máy móc, phương tiện đi lại, đồ điện tử… thì đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Tuy nhiên các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa thể tự sản xuất, hoặc sản xuất được rất ít, mà chỉ dừng lại ở việc gia công, lắp đặt theo yêu cầu hoặc chế tạo công cụ dụng cụ, máy móc loại nhỏ. Do đó để cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài là một thách thức đối với các doanh nghiệp đó. Nguồn vốn khan hiếm và dây chuyền công nghệ cũng như kỹ năng tay nghề trong nước còn nhiều hạn chế. Muốn đi lên phát triển và cạnh tranh được với các doanh nghiệp FDI cùng ngành là một quá trình dài lâu cần có sự hỗ trợ của cả chính phủ. Bên cạnh đó, bài học từ Trung Quốc, Thái Lan cho thấy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước là tiền đề để thu hút dòng vốn FDI chảy vào các ngành công nghiệp trong nước. Công nghiệp hỗ trợ trong nước càng phát triển thì càng hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các ngành sản xuất máy móc, thiết bị. Về phía doanh nghiệp, trước hết vẫn cần đáp ứng được về mặt sản phẩm, tích cực chuyển giao
công nghệ, đào tạo lao động cũng như nghiên cứu phát triển để tạo ra sức bật lớn hơn cho doanh nghiệp.
- Đối với ngành nông nghiệp: Ngành này chịu tác động tiêu cực từ lan tỏa ngang hay hiệu ứng cạnh tranh. Các thương hiệu của các doanh nghiệp FDI có sẵn trên thị trường là một cái bóng mà các doanh nghiệp này cần phải vượt qua. Với lợi thế về địa lý và nguồn tài nguyên, hẳn doanh nghiệp tại tỉnh Savannakhet nên cố gắng hơn nữa trong việc mang sản phẩm của mình ra thị trường không chỉ trong nước mà còn khu vực và quốc tế để cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI đó. Ngoài ra các doanh nghiệp cũng cần áp dụng các tiêu chuẩn chặt chẽ về sản phẩm nông thủy sản nhằm nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của khách hàng cũng như gia tăng xuất khẩu. Các doanh nghiệp trong nước có thể liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc cung ứng sản phẩm, nguyên liệu đầu vào hoặc sử dụng nguyên liệu của các doanh nghiêp nước ngoài để sản xuất sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình.
- Đối với ngành dịch vụ: Ngành này cũng chịu ảnh hưởng của hiệu ứng cạnh tranh và không chịu ảnh hưởng của lan tỏa công nghệ hay hoạt động R&D. Ví dụ điển hình như các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tài chính, bảo hiểm, ngành này phản ánh trình độ cao so với mặt bằng chung các doanh nghiệp dịch vụ. Tuy nhiên các ngân hàng FDI lại mang thế mạnh rõ ràng về vốn, nhân lực, trình độ quản lý nên các ngân hàng trong nước có quy mô nhỏ thì khó cạnh tranh với các doanh nghiệp đó. Các giải pháp đề xuất là tiếp tục cấu trúc lại hệ thống tổ chức, sáp nhập các chi nhánh nhỏ tiềm lực yếu khó đứng vững trên thị trường. Xây dựng và mở rộng hợp tác giữa các ngân hàng, tổ chức tín dụng, tài chính, bảo hiểm của doanh nghiệp FDI nhằm tạo ra một kênh phân phối toàn diện, đa dịch vụ, từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh, đáp ứng đòi hỏi khắt khe của các khách hàng tiềm lực lớn…
5.4.1.6. Tăng cường hoạt động R&D, kết hợp giữa vốn tự có của doanh nghiệp với hình thức liên kết nghiên cứu với các doanh nghiệp FDI.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động R&D trong doanh nghiệp còn khá khiêm tốn. Tuy nhiên sự có mặt của lượng nhỏ R&D vẫn làm tăng đầu ra của doanh nghiệp theo như kết quả nghiên cứu. Và vì vậy, các doanh nghiệp cần chú trọng hơn nữa vào hoạt động này. Hoạt động tự nghiên cứu sẽ khiến cho các doanh nghiệp trong nước
phải bỏ ra một lượng vốn, nhân lực, thời gian. Trong khi liên kết R&D với các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp trong nước sẽ tiết kiệm được chi phí mà mang lại hiệu quả cao hơn do tiếp cận được các kỹ năng, công nghệ, lao động tay nghề cao sẵn có ở doanh nghiệp FDI cùng hợp tác. Điều này cho thấy liên kết chia sẻ chi phí R&D để tận dụng nguồn lực và năng lực bên ngoài là một nhân tố quan trọng thúc đẩy lan tỏa công nghệ, tri thức ở cấp doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong nước cần dần dần đa dạng chiến lược, đổi mới công nghệ, cởi mở hơn để tiếp cận tốt hơn với các nguồn tri thức bên ngoài, coi các doanh nghiệp FDI là phương tiện góp phần phát triển doanh nghiệp. Các hình thức hợp tác có thể chỉ mang tính chất ngắn hạn (thường thông qua hợp đồng nghiên cứu, tư vấn để giải quyết một số vấn đề của doanh nghiệp), hoặc dài hạn (triển khai các dự án chung, các doanh nghiệp ký kết các hợp đồng lõi chung cho sản phẩm dịch vụ và các phụ lục hợp đồng linh hoạt theo từng nội dung, hoặc chiến lược hơn là cung cấp một nền tảng đa phương diện, ở đó doanh nghiệp trong nước có thể phát triển doanh năng lực đổi mới sáng tạo trong dài hạn dựa trên các phương pháp, phương tiện, thiết bị của doanh nghiệp FDI)
5.4.2. Giải pháp đối với chính quyền tỉnh Savannakhet
5.4.2.1. Tăng cường vốn cho các doanh nghiệp trong nước
Tại tỉnh Savannakhet, số doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ chiếm đa số, trong khi các doanh nghiệp này chịu sức ép rất lớn từ các đối thủ cạnh tranh FDI. Hầu hết các doanh nghiệp chỉ có 25% vốn tự có, còn lại thường phải huy động ngoài với lãi suất cao nên khó có điều kiện để đổi mới công nghệ sản xuất, đầu tư đào tạo nâng cao chất lượng nhân lực, hoặc đầu tư thì cũng không nhiều. Trong điều kiện tình hình dịch bệnh hiện nay, nguồn vốn lại càng ngày càng eo hẹp càng gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Trong khi đó, chính phủ lại chỉ có những gói hỗ trợ nhỏ lẻ, không đáp ứng được nhu cầu hoạt động của doanh nghiệp chứ chưa nói đến hỗ trợ cho mục tiêu chuyển giao công nghệ, nghiên cứu sáng tạo, nâng cao chất lượng nhân lực, tiếp cận thị trường xuất khẩu…
Việc tăng cường vốn cho doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay là một vấn đề cấp thiết để có thể tăng cường được hiệu ứng lan tỏa tích cực từ công nghệ, lao động, R&D và khắc phục hiệu ứng tiêu cực từ cạnh tranh.
Chính quyền tỉnh Savannakhet nói riêng cần điều chỉnh chính sách hỗ trợ tới các doanh nghiệp trong nước. Chính sách hỗ trợ cần được triển khai cụ thể, hướng dẫn triển khai và thực hiện rõ ràng, minh bạch hóa các điều kiện vay vốn từ đó doanh nghiệp có phương hướng vay vốn và hoạch định kế hoạch tài chính hiệu quả hơn.
Ngân hàng nhà nước cần xem xét cắt giảm lãi suất cho vay cho các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp hỗ trợ, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, đặc biệt là khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có chính sách tín dụng hợp lý để khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Tỉnh cần có những biện pháp hỗ trợ đồng bộ, hiệu quả để đảm bảo nguồn vốn vay với chi phí hợp lý nhất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh và mở rộng sản xuất, đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
5.4.2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước
Nguồn nhân lực góp phần không nhỏ trong việc nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Do vậy về phía nhà nước cần tăng cường hoạt động đào tạo cho doanh nghiệp về kiến thức xuất khẩu hàng hóa để cắt giảm chi phí tiếp cận thị trường và tăng cơ hội xuất khẩu hàng hóa. Nhân lực của các doanh nghiệp tại tỉnh hiện đang thiếu thốn cả về chất và lượng, yếu về kiến thức xuất khẩu hàng hóa và khả năng tìm kiếm đối tác thương mại, do vậy chi phí tiếp cận thị trường xuất khẩu còn khá cao và công tác chưa thực sự hiệu quả. Tỉnh cần thông qua các cơ quan như Bộ Công Thương và các cục xúc tiến thương mại tổ chức các hoạt động đào tạo kiến thức cũng như hỗ trợ thông tin cần thiết để doanh nghiệp nâng cao được kiến thức từ đó góp phần mở rộng thị trường, đưa sản phẩm ra quốc tế.
5.4.2.3. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước trong hoạt động chuyển giao công nghệ và R&D
Tỉnh cần đổi mới hệ thống và cơ chế quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ theo hướng tinh giản, tập trung cho xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách. Tăng cường điều phối liên ngành, liên vùng, giảm bớt chức năng tác nghiệp cụ thể. Đổi mới các cơ chế hoạt động khoa học công nghệ gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất kinh doanh với nghiên cứu, đào tạo, doanh nghiệp là trung tâm ứng dụng và đổi mới công nghệ. Xây dựng các cơ chế nhằm khuyến khích, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, hỗ trợ
ứng dụng kết quả vào thực tiễn sản xuất. Gắn kết giữa cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp trên cơ sở phân chia lợi ích để nâng cao tính thiết thực theo cơ chế thị trường.
Tỉnh cần thiết lập mạng lưới kết nối giữa các cơ sở đào tạo, viên nghiên cứu về khoa học công nghệ với các cơ sở thực hành và doanh nghiệp. Khuyến khích các hình thức liên kết hoạt động R&D với doanh nghiệp FDI. Bên cạnh đó năng lực sáng tạo quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng giáo dục và đào tạo cho các nhà khoa học. Nên tỉnh cần đổi mới hoạt động đào tạo nguồn nhân lực quốc gia theo hướng ứng dụng thực hành kết hợp với nghiên cứu. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao. Xây dựng và quản lý quy hoạch phát triển nhân lực khoa học, công nghệ. Đảm bảo kinh phí từ nguồn Ngân sách Nhà nước cho phát triển và ứng dụng công nghệ. Chủ động hợp tác mở rộng quăn hệ hợp tác quốc tế thông qua việc xây dựng một số dự án đón đầu để thu hút các nguồn tài trợ quốc tế.
5.4.2.4. Đa dạng hóa hình thức đầu tư, khuyến khích đầu tư theo hình thức liên doanh để có thể học hỏi công nghệ và kinh nghiệm quản lý
Đa dạng hóa các hình thức đầu tư, đặc biệt là mở rộng hình thức công ty cổ phần, công ty hợp danh, điều chỉnh lại quy định về tổ chức và quản lý doanh nghiệp liên doanh phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc đa đạng hóa hình thức đầu tư sẽ mở rộng được cách đối tượng nước ngoài tham gia đầu tư tại tỉnh. Tất cả các thành phần kinh tế có đủ điều kiện được tham gia vào liên doanh, hợp tác FDI với nước ngoài, kể cả thể nhân. Khuyến khích và mở rộng hơn nữa cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước để tạo môi trường cạnh tranh sôi động, lành mạnh, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong khuôn khổ của pháp luật. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa, tái cơ cấu và sắp xếp lại các doanh nghiệp trong nước. Cần đặc biệt khuyến khích hình thức doanh nghiệp liên doanh trong thu hút FDI vì hình thức này giúp các nhà đầu tư trong nước dễ dàng hơn trong việc tiếp thu tiến bộ kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp.
5.4.2.5. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng
Tích cực tận dụng các mối quan hệ đối ngoại, tham gia các diễn đàn đầu tư, các cuộc hội thảo quốc tế nhằm nắm bắt được thông tin từ các đối tác đầu tư nước ngoài.
Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đối với những vùng, địa phương có cơ sở hạ tầng phát triển, cần tiếp tục đầu tư để duy trì, cải tạo và nâng cấp để tạo động lực phát triển vùng, tạo điều kiện thu hút các dự án FDI mới cũng như tạo thuận lợi cho các dự án đang hoạt động. Mặt khác cũng thúc đẩy sự phát triển của các vùng phụ cận. Đối với những vùng, địa phương cơ sở hạ tầng chưa phát triển, cần dành các nguồn vốn tài trợ, vốn theo các chương trình mục tiêu của tỉnh, vốn ưu đãi để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng từ đó mới có khả năng thu hút được nhiều nguồn FDI. Bên cạnh đó, cần sớm hoàn thành việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp đã được quy hoạch để xây dựng các doanh nghiệp có vốn FDI.
5.4.2.6. Hoàn thiện chính sách và tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tiếp tục củng cố hệ thống y tế, nâng cao tỷ lệ tiêm phòng Vaccine Covid-19 nhằm tạo môi trường xã hội ổn định, bảo vệ người dân khỏi dịch bệnh.
Đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời gian xin cấp giấy phép đầu tư, đảm bảo sự thống nhất giữa các văn bản về pháp luật đầu tư. Việc điều chỉnh phải theo tiến độ phù hợp, bám sát chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển của các ngành. Đưa ra các điều kiện ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài nhằm thu hút FDI cân đối theo từng lĩnh vực và vùng lãnh thổ.
Tiếp tục cải thiện các thủ tục hành chính để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài tại tỉnh. Dần tiến đến chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước. Cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hóa các thủ tục và thực hiện cơ chế một dấu, một cửa. Tăng cường các chính sách khuyến khích và ưu đãi về tài chính, tín dụng nhằm tạo động lực lớn hơn cho các doanh nghiệp trong nước hướng mạnh vào xuất khẩu.
Thực tế, dịch Covid-19 xuất hiện tại tỉnh Savannakhet vào đầu năm 2020, nhưng đến nay vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến kinh tế thế giới và trong nước theo nhiều kịch bản. Với phản ứng quyết liệt và khá sớm, tỉnh là một trong số ít quốc gia được đánh giá là tương đối thành công trong kiểm soát Covid-19. Tỉnh cũng đã đạt được những kết quả tích cực trong thực hiện “mục tiêu kép”, vừa phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả vừa duy trì tăng trưởng kinh tế.
.....