Đối Với Các Ngân Hàng Thương Mại Quy Mô Lớn (Tổng Tài Sản Trên



Câu hỏi

Mô hình

nghiên cứu

Phương

pháp Kết quả

▪ Mức độ tập trung ngành tác động (-) đến ROA và tác động (+) đến ROE các NHTM Việt Nam.


Câu hỏi II

Independent Samples T-test & Bootstrap; Levene test & Brown–Forsythe test


REM, FEM

▪ ROA & (ROE) trung bình nhóm có tổng tài sản từ 100.000 tỷ VNĐ tương ứng thấp hơn & (cao hơn) nhóm có tổng tài sản dưới 100.000 tỷ VNĐ là 0,1623% & (3,9607%), và biến động thấp hơn & (cao hơn).

▪ NIM và tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản tác động tích cực hơn đến ROA và ROE của nhóm có tổng tài sản từ trên 100.000 tỷ VNĐ.

▪ Các nhân tố còn lại tác động tích cực hơn

Câu hỏi III MH2

& FGLS

đến ROA và ROE của nhóm có tổng tài sản dưới 100.000 tỷ VNĐ.

▪ Trong một số ít trường hợp, vốn chủ sở hữu tác động tích cực hơn đến ROA nhóm có tổng tài sản từ trên 100.000 tỷ VNĐ.

▪ Tồn tại một ngưỡng tổng tài sản bằng

556.265 tỷ VNĐ, theo đó tác động dương của

Câu hỏi IV MH3 PTR


Câu hỏi V MH4 PTR

quy mô (S) đến ROA tăng từ 0,0036 lên 0,0038 khi tổng tài sản NHTM vượt qua ngưỡng.

▪ Tồn tại một ngưỡng tổng tài sản bằng 621.008 tỷ VNĐ, theo đó tác động dương của vốn chủ sở hữu đến ROA tăng từ 0,0147 lên 0,0715 khi tổng tài sản NHTM vượt qua ngưỡng.

▪ Tồn tại một ngưỡng tổng tài sản bằng

621.008 tỷ VNĐ, theo đó tác động dương

Câu hỏi VII

MH5 PTR

của rủi ro thanh khoản đến ROA tăng từ - 0,0021 lên 0,0016 (insignificant) khi tổng tài sản NHTM vượt qua ngưỡng.




Câu hỏi

Mô hình

nghiên cứu

Phương

pháp Kết quả



Câu hỏi VII


Câu hỏi VIII


MH6 PTR


MH7 PTR

▪ Tồn tại một ngưỡng tổng tài sản bằng

621.008 tỷ VNĐ, theo đó tác động dương của NIM đến ROA tăng từ 0,5627 lên 0,7075 khi tổng tài sản NHTM vượt qua ngưỡng.

▪ Tồn tại một ngưỡng tổng tài sản bằng

621.008 tỷ VNĐ, theo đó tác động dương của tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng tài sản đến ROA tăng từ 0,8217 lên 1,2994 khi tổng tài sản NHTM vượt qua ngưỡng.

▪ Tồn tại một ngưỡng tổng tài sản bằng

556.265 tỷ VNĐ, theo đó tác động dương của NIM & tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng

Câu hỏi IX MH8 PTR

tài sản đến ROA đồng thời thay đổi lần lượt từ 0,5591 & 0,8131 sang 0,5568 & 1,1477

khi tổng tài sản NHTM vượt qua ngưỡng.


Nguồn: Kết quả các ước lượng và kiểm định trong luận án.

4.2. Hàm ý chính sách


4.2.1. Đối với các ngân hàng thương mại quy mô lớn (Tổng tài sản trên

100.000 tỷ VNĐ)

Kết quả Mô hình 2 cho thấy tác động dương từ NIM tới nhóm NHTM quy mô lớn mạnh hơn 58,60% với ROA là biến phụ thuộc và 2,62 lần với ROE là biến phụ thuộc. Tương tự, tác động dương của DIA mạnh hơn 17,32% với ROA là biến phụ thuộc và 2,22 lần với ROE là biến phụ thuộc. Các kết quả này cho thấy các NHTM quy mô lớn có vị thế trên thị trường truyền thống cao hơn, đồng thời cũng có lợi thế đa dạng hóa thu nhập cao hơn các NHTM quy mô nhỏ. Trong khi đó, tác động của các nhân tố còn lại đối với nhóm NHTM quy mô lớn đều không tích cực bằng nhóm NHTM quy mô nhỏ.

Đối với hoạt động truyền thống, việc tăng NIM có thể thực hiện theo hai mặt,

đó là tăng lãi suất cho vay bình quân mạnh hơn hoặc giảm lãi suất huy động vốn bình


quân mạnh hơn. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất cho vay có thể dẫn tới gánh nặng trả lãi cao hơn đối với bên đi vay, dẫn tới quy mô nợ xấu lớn hơn hoặc chi phí dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn. Kết quả tại Mô hình 2 cũng cho thấy tác động âm của rủi ro tín dụng (LPCLR) đối với nhóm NHTM quy mô lớn mạnh hơn 36,84% so với nhóm NHTM quy mô nhỏ trong trường hợp ROA và 71,58% trong trường hợp ROE. Điều này hàm ý chi phí rủi ro tín dụng ảnh hưởng nghiêm trọng hơn tới vốn chủ sở hữu của nhóm NHTM quy mô lớn so với nhóm NHTM quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, ước lượng của tỷ lệ vốn chủ sở hữu lại cho thấy trong đa số trường hợp, việc tăng cường vốn chủ sở hữu tác động tích cực tới hiệu quả tài chính của nhóm NHTM quy mô nhỏ hơn. Từ các điều trên cho thấy việc tăng NIM từ tăng lãi suất cho vay có thể không mang lại hiệu quả tài chính cao cho các NHTM lớn, vì có thể làm tăng rủi ro tín dụng, trong khi việc tăng cường vốn chủ sở hữu không có nhiều tác dụng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng đối với nhóm NHTM quy mô lớn. Điều này cũng phù hợp với các phân tích về tác động của giả thuyết “Hấp thu rủi ro” khi các NHTM quy mô lớn tăng cường vốn

chủ sở hữu, làm chúng càng có thêm động lực gia tăng hoạt động cho vay25, do đó khó

có thể giảm rủi ro tín dụng. Vì vậy, luận án khuyến nghị việc tăng NIM nên xuất phát từ việc giảm lãi suất huy động vốn bình quân như giá rẻ từ các nguồn như tiền gửi thanh toán từ các doanh nghiệp lớn; tổ chức, cơ quan nhà nước và từ dân cư (tăng tỷ trọng CASA). Bên cạnh đó, tùy thuộc vào việc cân đối lợi nhuận-chi phí của từng NHTM, có thể thực hiện các chương trình khuyến mãi cắt giảm các loại phí liên quan đến tài khoản thanh toán nhằm thúc đẩy số dư huy động từ các tài khoản này và tăng số lượng khách hàng. Nguồn thu từ các dịch vụ gia tăng ngoài lãi khác khi khách hàng sử dụng thêm các sản phẩm/dịch vụ được bán chéo và lợi ích từ việc tăng quy mô nguồn vốn giá rẻ khi số lượng khách hàng được tăng thêm sẽ bù đắp chi phí phát sinh theo việc cắt giảm các loại phí này.

Kết quả Mô hình 2 hàm ý tác động dương từ thu nhập ngoài lãi tới ROA nhỉnh hơn hơn từ thu nhập từ lãi, trong khi tác động dương của thu nhập từ lãi lại nhỉnh hơn thu nhập ngoài lãi khi biến phụ thuộc là ROE. Như vậy, tùy thuộc vào mục tiêu của mỗi NHTM trong nhóm này hướng đến hiệu quả quản lý tài sản hay hiệu quả quản lý vốn góp của cổ đông, mỗi NHTM có thể chọn chiến lược kinh doanh phù hợp cho riêng mình. Mặc dù vậy, sự chênh lệch tác động trong hai trường hợp là nhỏ, do đó, việc lựa chọn chiến lược kinh doanh còn phụ thuộc vào thế mạnh và dư địa phát triển của mỗi NHTM đối với hai loại hình hoạt động này.


25 Xem phân tích đối với Bảng 3.6


Khác với nhóm NHTM quy mô nhỏ, chi phí hoạt động có tác động tiêu cực mạnh hơn nhiều lần và là nhân tố tác động tiêu cực nhất đến hiệu quả tài chính của các NHTM quy mô lớn. Điều này làm lộ rõ cho nguyên nhân về mặt lý thuyết khiến chúng không đạt được tính kinh tế nhờ quy mô (đại diện bởi tác động âm của quy mô đến hiệu quả tài chính-có ý nghĩa thống kê mức 10% với ROA và không có ý nghĩa thống kê với ROE). Nói cách khác, sự phi hiệu quả cao về mặt chi phí vận hành NHTM xuất phát từ sự thiếu linh hoạt, bộ máy tổ chức phức tạp là nguyên nhân lớn nhất làm suy giảm hiệu quả tài chính của các NHTM quy mô lớn. Điều này đã được nhiều nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra. Một trong các giải pháp giúp NHTM quản lý chi phí hiệu quả hơn như xây dựng hệ thống MIS (management information system) bao gồm cơ sở dữ liệu về lợi nhuận-chi phí một cách chi tiết tới từng hoạt động và giao dịch, sau đó sử dụng các công cụ Data mining và các thuật toán để phân tích tác động hoặc dự báo, từ đó xác định các loại hoạt động phi hiệu quả về chi phí hoặc mang lại hiệu quả cao về lợi nhuận, làm cơ sở ra quyết định kinh doanh. Nhiều NHTM cũng cần hoàn thiện hệ thống chấm điểm KPI (key performance index) và quản lý tiền lương. Tuy nhiên, phương pháp luận thường là điểm gây tranh cãi đối với việc đánh giá theo KPI. Phương pháp luận không công bằng có thể dẫn đến sự phân bổ thiếu hiệu quả quỹ lương hay thu nhập, làm giảm động lực làm việc của người lao động. Vì vậy, việc xây dựng phương pháp luận KPI trước hết phải thống kê đầy đủ các loại hoạt động của từng nhân viên theo từng JD (job descriptions) cũng như đánh giá hợp lý mức độ quan trọng, chất lượng của từng hoạt động và ước lượng được thời gian phù hợp để nhân viên có thể hoàn thành công việc. Molyneux và Thornton (1992) đã chỉ ra việc trả lương cao đối với nhân viên có năng suất làm việc cao có thể giúp giúp NHTM tăng lợi nhuận. Đây là giải pháp khả thi trong trường hợp các NHTM quy mô lớn khó có thể cắt giảm chi phí lương và các thu nhập khác cho người lao động để cạnh tranh nguồn nhân lực có chất lượng cao. Nhà quản lý NHTM cũng cần thường xuyên rà soát các nút thắt (bottle neck) trong các quy trình hoạt động, giảm thiểu các công việc bên lề, chồng chéo hoặc không có ý nghĩa quản trị rủi ro.

4.2.2. Đối với các ngân hàng thương mại quy mô lớn nhất (Tổng tài sản vượt ngưỡng)

Kết quả các Mô hình 2 và Mô hình 6,7,8 cho thấy nhóm NHTM có tổng tài sản vượt ngưỡng 556.265 tỷ VNĐ có lợi thế hơn nhiều các NHTM còn lại về lợi ích của thu nhập ngoài lãi mang lại đối với hiệu quả tài chính. Kết quả này phù hợp với lý thuyết trung gian tài chính cũng như nhiều nghiên cứu thực nghiệm về lợi thế đa dạng hóa thu nhập cũng như sự ổn định hơn về hiệu quả tài chính do quy mô lớn của các NHTM này mang lại. Vì vậy, luận án khuyến nghị đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh


ngoài lãi như các dịch vụ như NHTM điện tử, thẻ, thanh toán trực tuyến, bảo hiểm để tận dụng lợi thế đa dạng hóa thu nhập từ quy mô. Cũng lưu ý, trong các sản phẩm dịch vụ ngoài lãi, các dịch vụ trên ít rủi ro hơn các hoạt động liên quan đến nghiệp vụ phái sinh và NHTM đầu tư. Nhiều nghiên cứu đối với mẫu tại NHTM thuộc các nước phát triển (chủ yếu tại Hoa Kỳ) trước và trong giai đoạn khủng hoảng tài chính gần đây như DeYoung và Roland (2001), Stiroh (2004, 2006), De Haan và Poghosyan (2012 a,b) đều cho thấy các hoạt động phi truyền thống đem đến sự biến động hơn trong thu nhập của NHTM. Trước đó, Couto (2002) đã chỉ ra sự biến động mạnh của hiệu quả tài chính có thể dẫn đến suy giảm sự vững vàng trong hiệu quả tài chính của NHTM thông qua việc làm bất ổn định vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, trước khủng hoảng, tỷ trọng thu nhập liên quan đến nguyên nhân gây ra khủng hoảng như các nghiệp vụ chứng khoán hóa khoản vay, hay các nghiệp vụ phái sinh chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngoài lãi, trong khi các dịch vụ như NHTM điện tử, thẻ, thanh toán trực tuyến chưa phát triển như hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Demirgüç-Kunt và Huizinga (2010); DeYoung và Torna (2013) hay De Jonghe và cộng sự (2015) cũng cho thấy nguồn thu ngoài lãi dẫn tới rủi ro cao hơn cho NHTM, tuy nhiên khi cơ cấu thu nhập này tập trung vào các dịch vụ thu phí như môi giới hay các dịch vụ NHTM điện tử, thẻ, bảo hiểm sẽ gia tăng hiệu quả và sự ổn định thay vì tập trung vào các sản phẩm chứng khoán hóa và phái sinh nhiều rủi ro. Tuy nhiên, tại Việt Nam, NHTM chưa tham gia nhiều vào hoạt động NHTM đầu tư hoặc chứng khoán hóa như tại các nước có nền tài chính phát triển, do vậy các NHTM thuộc nhóm quy mô lớn nhất này có thể tiếp tục chuyển đổi mô hình kinh doanh sang các sản phẩm, dịch vụ ngoài lãi như các dịch vụ NHTM điện tử, thẻ, bảo hiểm và các hoạt động ngoài lãi khác để đạt hiệu quả tài chính cao hơn trong khi vẫn đạt được sự an toàn hoạt động tốt hơn các hoạt động ngoài lãi nhiều rủi ro như trên. Đối với những NHTM này, kết quả trên còn cho thấy sự cấp thiết trong việc chuyển đổi mô hình kinh doanh để giảm giảm bớt gánh nặng đối với việc tăng cường tỷ lệ an toàn vốn. Nói cách khác, các NHTM có quy mô lớn nhất cần tăng cường đòn bẩy hoạt động (VD: đầu tư vào hạ tầng công nghệ thông tin) trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thu nhập này theo một chiến lược dài hạn. Thêm vào đó, mặc dù kết quả trên hàm ý thu nhập ngoài lãi cận biên có ý nghĩa quan trọng với nhóm này, nó không đề cập tới vấn đề đằng sau. Đó là, để có thu nhập ròng ngoài lãi là dương, các nguồn chi phí ngoài lãi (chi phí đầu tư vào hạ tầng công nghệ cho các hoạt động ngoài lãi, chi phí bán hàng) cần được chú trọng, nếu không nó sẽ có tác động tiêu cực lớn tới hiệu quả của NHTM.


Kết quả Mô hình 8 cho thấy tác động NIM đối với nhóm NHTM quy mô lớn giảm nhẹ khi tổng tài sản vượt ngưỡng 556.265 tỷ VNĐ, điều này cũng đã được chỉ ra tại kết quả Mô hình 1 khi tác động của biến CON (CR4 của bốn NHTM có vốn nhà nước) là âm và có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 5% tới ROA, qua đó bác bỏ giả thuyết SCP. Nói cách khác, vị thế lớn hơn trên thị trường truyền thống chưa đủ để chúng có lợi thế độc quyền trên thị trường truyền thống. Điều này là do các NHTM quy mô nhỏ hơn thường được đánh giá cao hơn ở khả năng khai thác thông tin mềm (soft-information) và phát triển mối quan hệ với khách hàng trong các hoạt động tín dụng và huy động vốn. Do đó, các NHTM có quy mô lớn nhất này (nhóm bốn NHTM có vốn nhà nước) cần nâng cao chất lượng hoạt động quan hệ khách hàng (customer relationship manager –CRM), nếu không muốn mất khách hàng. Bên cạnh đó, nếu nhóm NHTM này chuyển đổi dần mô hình kinh doanh sang dựa vào nhiều hơn thu nhập ngoài lãi, quy mô về số lượng khách hàng trở nên quan trọng hơn, cùng với kết quả Mô hình 8 đã trình bày ở trên, luận án khuyến nghị chúng nên cạnh tranh về giá trên thị trường truyền thống. Cụ thể, nhóm NHTM này có thể xem việc điều chỉnh tăng nhẹ lãi suất tiền gửi, hoặc giảm nhẹ lãi suất cho vay như một giải pháp cạnh tranh thường xuyên với các NHTM còn lại nhằm thu hút và giữ chân khách hàng. Khi đó, tác động từ việc NIM giảm sẽ được bù đắp nhờ quy mô dư nợ và tiền gửi tăng và tăng thu nhập từ các hoạt động ngoài lãi như các dịch vụ NHTM điện tử, thẻ, bảo hiểm, thanh toán khi quy mô số lượng khách hàng tăng.

Kết quả Mô hình 2 với ROA và Mô hình 4 cho thấy sự cấp thiết và quan trọng trong việc tăng cường vốn chủ sở hữu đối với nhóm NHTM có quy mô lớn nhất (tổng tài sản vượt ngưỡng 621.008 tỷ VNĐ). Trong khi ROE là tiêu chí sinh lời không tính tới rủi ro đi cùng với mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính và tác động của các quy định về đòn bẩy tài chính (hoặc tỷ lệ an toàn vốn) (Dietrich và Wanzenried, 2011), ROA là tiêu chí sinh lời tốt hơn phản ánh các tác động này, và đã được thể hiện đối với nhóm NHTM có quy mô lớn nhất tại Việt Nam. Cụ thể, nhóm NHTM này có mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn hẳn các NHTM còn lại, do đó chúng cần phải tăng cường vốn chủ sở hữu để đảm bảo các quy định về giới hạn tăng trưởng tín dụng và an toàn vốn, đặc biệt trong giai đoạn mà hệ thống NHTM Việt Nam đang hướng đến đáp ứng các tiêu chuẩn Basel II. Điều này sẽ giúp chúng đảm bảo tăng trưởng tín dụng, vốn là hoạt động đem về thu nhập chính cho các NHTM tại Việt Nam. Việc đẩy mạnh định hướng đầu tư cho hoạt động ngoài lãi và thu nhập ngoài lãi thông qua tăng cường mức độ đòn bẩy hoạt động khi so sánh tương quan với đòn bẩy tài chính cũng giúp các NHTM này giảm bớt gánh nặng về yêu cầu tăng cường vốn.


Kết quả Mô hình 5 cho thấy nhóm NHTM có quy mô lớn nhất (tổng tài sản vượt ngưỡng 621.008 tỷ VNĐ) ít chịu áp lực về thanh khoản hơn các NHTM còn lại khi đẩy mạnh (tác động của LDR chuyển từ âm sang dương khi tổng tài sản vượt ngưỡng trên). Điều này cũng hàm ý chúng có rủi ro thanh khoản thấp hơn, thể hiện ở tỷ lệ dư nợ trên tiền gửi khách hàng thấp hơn và ổn định hơn. Bảng 4.2 cho thấy nhóm NHTM có vốn nhà nước), tức bốn NHTM Agribank, BIDV, Vietinbank, Vietcombank trong mẫu luôn có mức độ biến động LDR (độ lệch chuẩn) thấp hơn nhóm NHTM còn lại. Tuy nhiên, tỷ lệ LDR trung bình của chúng cao hơn 12,61% so với các NHTM khác.

Bảng 4.2: Tỷ lệ dư nợ trên tiền gửi trung bình các nhóm NHTM trong mẫu.


Nhóm NHTM

LDR trung bình nhóm

Độ lệch chuẩn

NHTMCP tư nhân

86,03%

24,82%

NHTM có vốn nhà nước

96,88%

13,45%

Dưới ngưỡng 621.008,47 tỷ VNĐ

101,21%

14,13%

Vượt ngưỡng 621.008,47 tỷ VNĐ

92,04%

11,14%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 248 trang tài liệu này.

Hiệu quả theo quy mô của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 20


Nguồn: Tác giả thống kê từ mẫu nghiên cứu

Tuy nhiên, khi quy mô của chúng vượt ngưỡng 621.008 tỷ VNĐ, tỷ lệ LDR trung bình của chúng thấp hơn các NHTM khác 9,06%, đồng thời mức độ biến động cũng thấp hơn so với giai đoạn trước khi quy mô của chúng vượt ngưỡng trên. Điều này cho thấy nhóm bốn ngân này cần tiếp tục duy trì mức độ tăng trưởng huy động vốn một cách cân đối với tăng trưởng tín dụng, khi đó rủi ro thanh khoản của chúng đối với hoạt động truyền thống không phải là vấn đề đáng ngại.

4.2.3. Đối với các ngân hàng thương mại quy mô nhỏ (Tổng tài sản dưới

100.000 tỷ VNĐ)

Tương tự nhóm NHTM có tổng tài sản vượt ngưỡng 556.265 tỷ VNĐ, nhóm NHTM quy mô nhỏ có tính kinh tế nhờ quy mô (economies of scale), do tác động của nhân tố quy mô đến hiệu quả tài chính với chúng là dương (dù không có ý nghĩa thống kê trong trường hợp ROA). Nguyên nhân chính là do tác động của chi phí hoạt động đại diện cho sự phi hiệu quả về mặt chi phí trong việc vận hành NHTM có độ lớn nhỏ hơn so nhóm NHTM quy mô lớn nhiều lần và không có ý nghĩa thống kê trong cả hai


trường hợp ROA và ROE (theo kết quả Mô hình 2 với ước lượng FEM và REM). Các kết quả ước lượng trên hàm ý chúng sẽ đạt được hiệu quả tài chính cao hơn khi tăng trưởng quy mô của mình. Tuy vậy, việc chi phí hoạt động không tác động mạnh đến hiệu quả tài chính cũng hàm ý chính sách lương và thu nhập cho người lao động tại nhóm NHTM này còn hạn chế và cần gia tăng nhằm thúc đẩy động lực làm việc của nhân viên cũng như thu hút thêm nguồn nhân lực có chất lượng cao.

Đối với việc lựa chọn chiến lược kinh doanh, kết quả tại Mô hình 2 cho thấy nhóm NHTM quy mô nhỏ hoàn toàn bất lợi về tác động của NIM tới hiệu quả tài chính trong cả hai trường hợp ROA và ROE so với nhóm NHTM quy mô lớn. Tuy vậy, chúng có lợi thế tương đối khi sự chênh lệch tác động của DIA so với NIM tại nhóm này lớn hơn nhiều so với nhóm NHTM quy mô lớn. Kết quả này hàm ý với cùng một mức độ tăng trưởng tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập tại hai nhóm NHTM, nhóm NHTM quy mô nhỏ sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng hiệu quả tài chính cao hơn. Vì vậy, luận án khuyến nghị nhóm NHTM quy mô nhỏ không nên tăng trưởng lợi nhuận dựa vào việc tăng trưởng NIM, thay vào đó, nhóm này nên thu hút khách hàng với lãi suất huy động cạnh tranh nhằm thúc đẩy quy mô tiền gửi khách hàng và số lượng khách hàng, tạo cơ sở tăng trưởng quy mô tín dụng và tăng trưởng tài sản. Bên cạnh đó, bộ phận chính sách sản phẩm tại các NHTM quy mô nhỏ cần có nhiều giải pháp đa dạng về sản phẩm và việc bán chéo sản phẩm để thúc đẩy các nguồn thu ngoài lãi. Việc bán chéo sản phẩm bị hạn chế do sản phẩm thiếu đa dạng về tính năng hoặc thiếu mạng lưới đối tác rộng khắp như các NHTM quy mô lớn có thể đang là nút thắt trong việc phát triển thu nhập ngoài lãi của các NHTM quy mô nhỏ.

Kết quả Mô hình 2 đối với cả hai trường hợp ROA và ROE cho thấy các nhân tố kinh tế vĩ mô đều tác động dương, với mức ý nghĩa thống kê cao (1%) và độ lớn mạnh hơn tới hiệu quả tài chính của nhóm NHTM quy mô nhỏ so với nhóm NHTM quy mô lớn. Nói cách khác, các NHTM quy mô nhỏ có tính thuận chu kỳ kinh tế (pro-cyclical) hơn các NHTM quy mô lớn. Như đã chỉ ra trong thảo luận kết quả Mô hình 2, trong điều kiện các nhân tố kinh tế vĩ mô trên đều tăng trưởng như giai đoạn nghiên cứu này, là điều kiện thuận lợi để các NHTM quy mô nhỏ có thể tăng trưởng lợi nhuận nhanh chóng trên cơ sở rủi ro hệ thống được giảm thiểu, chênh lệch mức độ tín nhiệm do yếu tố “Too big to fail” hoặc do sự khác biệt do quy mô gây nên được giảm thiểu, hàm ý chênh lệch giá vốn giữa chúng và các NHTM quy mô lớn không cao bằng giai đoạn suy thoái hoặc khủng hoảng. Vì vậy, luận án khuyến nghị các NHTM quy mô nhỏ nên tìm kiếm các đối tác chiến lược với uy tín cao, đồng thời sớm đạt các tiêu chuẩn theo Basel

II. Bên cạnh đó, tích cực quảng bá thương hiệu và thúc đẩy các chiến dịch marketing.

Xem tất cả 248 trang.

Ngày đăng: 11/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí