ty chưa cổ phần hoá toàn tổng công ty thì tiến hành cổ phần hoá đa số các doanh nghiệp thành viên.
Thứ ba, cổ phần hoá các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm, trong các năm 2007-2010, sẽ tập trung chỉ đạo đổi mới và phát triển ngân hàng thương mại hn theo các hướng: Đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng Sông Cửu Long: Hoàn chỉnh đề án cổ phần hoá ngay trong năm 2006 để hoàn thành cổ phần hoá trong năm 2007; Đối với ba ngân hàng còn lại (Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) thì thực hiện cổ phần hoá theo hai bước:
Bước 1: Nâng cao năng lực tài chính theo hướng đạt các chỉ số lành mạnh tài chính theo chuẩn quốc tế (vào cuối năm 2006 đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam và cuối năm 2007 đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam);
Bước 2: Tiến hành cổ phần hoá (năm 2007: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam; năm 2008 cổ phần hoá Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam). Hoàn thành cổ phần hoá tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam và hình thành Tập đoàn Tài chính bảo hiểm Bảo Việt. Rà soát các công ty dịch vụ tài chính để đề ra và thực hiện lộ trình cổ phần hoá phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp này và yêu cầu phát triển thị trường tài chính.
2. Hướng giải pháp đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả cổ phần hóa
Theo tính toán, đến hết năm 2010, Việt Nam sẽ cổ phần hoá khoảng
1.500 doanh nghiệp. Đối với những tổng công ty và doanh nghiệp chưa cổ phần hoá được sẽ thực hiện sau năm 2010.
Để thực hiện thành công công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hóa và nâng cao hiệu quả của phương pháp này
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Thức Quản Lý Đã Có Những Biến Chuyển Tích Cực
- Bộ Máy Quản Lý Nội Bộ Cũ Kỹ, Ít Thay Đổi So Với Trước Cổ Phần Hóa
- Tính Công Khai Minh Bạch Trong Công Bố Thông Tin Theo Nguyên Tắc Thị Trường
- Hiệu quả của phương pháp cổ phần hóa trong cải tổ doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam - 10
- Hiệu quả của phương pháp cổ phần hóa trong cải tổ doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.
như đã đề ra, ông Hồ Xuân Hùng, Phó Trưởng Ban sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, theo tin trong bài “Năm 2010, Việt Nam cơ bản hoàn thành cải cách doanh nghiệp Nhà nước” của báo Đảng Cộng sản Việt Nam ra ngày 21/09/2006, cho rằng, cần thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
- Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước.
- Rà soát các thể chế phục vụ việc cổ phần hoá, phát hiện những bất hợp lý, mâu thuẫn, những điều không khả thi để kiến nghị sửa đổi; đồng thời đề xuất giải pháp tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thông thoáng trong việc thực hiện cổ phần hoá.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo hướng đơn giản, gọn nhẹ hơn, giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến trình sắp xếp doanh nghiệp nhà nước.
- Nâng cao tính công khai, minh bạch và thị trường trong quá trình sắp xếp; các bộ, địa phương, tổng công ty 91 xây dựng kế hoạch với lộ trình cụ thể, sắp xếp, cổ phần hoá các công ty Nhà nước độc lập, doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty và cổ phần hoá các công ty mẹ - tập đoàn, tổng công ty Nhà nước để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngay đầu năm 2007; thực hiện bằng được theo đúng nội dung và tiến độ các Đề án đã được phê duyệt; đẩy mạnh việc bán cổ phần, niêm yết và phát triển thị trường chứng khoán; tăng cường vai trò của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước trong quản lý và kinh doanh vốn Nhà nước.
- Tăng cường năng lực quản lý, điều hành, kể cả bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước, đảm bảo quản lý và đầu tư có hiệu quả vốn Nhà nước; tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý, đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước, nâng cao trình độ và tính minh bạch
trong quản trị doanh nghiệp; áp dụng nghiêm túc các chuẩn mực kế toán theo quy định.
- Tổ chức lại Hội đồng quản trị để thực sự là đại diện trực tiếp dân chủ sở hữu tại tổng công ty, chịu trách nhiệm trước chứuh tại tổng công ty, chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu về mọi hoạt động của tổng công ty.
- Triển khai việc Hội đồng quản trị ký hợp đồng thuê giám đốc giỏi điều hành doanh nghiệp; tích cực triển khai thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là về đào tạo đôi ngũ cán bộ quản lý, quản trị doanh nghiệp và đội ngũ lao động, kỹ thuật của doanh nghiệp; về cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, xử lý rủi ro trong kinh doanh, bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp; tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của chủ sở hữu; thực hiện quyền của cổ đông người góp vốn thông qua đại diện, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó trọng tâm là cổ phần hoá sẽ góp phần giúp các doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả hơn, cũng như nâng cao được năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cần thận trọng trong các bước đi để cổ phần hoá không được biến thành tư nhân hoá. Các ngành, các cấp cần có những bước đi cụ thể để công tác cổ phần hoá ở Việt Nam thực sự là xã hội hoá.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỔ PHẦN HÓA TẠI VIỆT NAM
1. Nâng cao năng lực tài chính, tạo tiềm lực mạnh cho doanh nghiệp phát triển
1.1. Nâng cao khả năng huy động vốn
1.1.1. Tạo sự công bằng trong vay vốn tín dụng
Do giai đoạn sau cổ phần, doanh nghiệp mất đi sự hỗ trợ mạnh mẽ từ nguồn vốn nhà nước, thêm vào đó sức ép từ việc phải tạo ra doanh thu, trả cổ
tức hàng năm cho cổ đông, khiến cho nhu cầu vốn tại các doanh nghiệp tăng cao; đặc biệt khi nhà nước đã dỡ bỏ cơ chế cho doanh nghiệp sử dụng toàn quyền phần thặng dư vốn cổ phần của nhà nước sau cổ phần hóa. Điều này dẫn đến việc doanh nghiệp phải tự tiếp cần với những nguồn vốn khác, trong đó có vay vốn tín dụng. Tuy nhiên lại có khoảng cách khá xa trong quy định và thực tế thực hiện các chính sách tín dụng ngân hàng. Sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện pháp tài chính như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ, chuyển vốn vay thành vốn nhà nước... không còn, doanh nghiệp gặp phải sự phân biệt đối xử thể hiện rõ qua các điều kiện về tín dụng, thế chấp, cầm cố tài sản và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể đối với doanh nghiệp trước và sau khi chuyển đổi.
Do vậy, việc nhà nước sớm ban hành một cơ chế cụ thể, quy định về sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn tín dụng là điều mà nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa hiện nay mong mỏi.
1.1.2.Tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán, nâng cao khả năng huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu
Có thể thấy rõ, sự ra đời của chế độ cổ phần trong lịch sử chính là tiền đề cơ bản để hình thành nên thị trường chứng khoán, ngược lại thị trường chứng khoán ra đời cũng tạo điều kiện cho các công ty cổ phần có thêm một kênh huy động vốn hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về tài chính cho sự phát triển của doanh nghiệp.Thị trường chứng khoán thu hút một lượng vốn đầu tư lớn trong nhân dân cho cả khu vực nhà nước và tư nhân. Một thị trường chứng khoán có tổ chức sẽ cung cấp mọi thông tin cần thiết về các loại chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu... cũng như khả năng sinh lời của chúng trong tương lai. Nói cách khác, giá trị của doanh nghiệp sẽ được phản ánh qua giá và biến động của chứng khoán doanh nghiệp phát hành trong điều kiện thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả.
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời đã được gần mười năm, bắt đầu từ ngày 11/7/1998 khi Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt nam ra đời cho tới phiên giao dịch đầu tiên quý 3 /2000. Tuy chỉ thực sự phát triển trong hai năm gần đây nhưng vai trò của nó đối với nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp cổ phần nói riêng là vô cùng rõ rệt. Do còn non trẻ và đang ở giai đoạn hoàn thiện nên bản thân thị trường cũng tồn tại nhiều điểm chưa hoàn thiện. Để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, chính phủ cần hoàn thiện từ hai mặt sau:
a) Khắc phục các tiêu cực trên thị trường:
Do còn non trẻ, nên trên thị trường chứng khoán hiện nay còn tồn tại nhiều hiện tượng tiêu cực như: yếu tố đầu cơ, tình trạng mua bán nội gián, mua bán cổ phần trao tay ngoài thị trường, phao tin đồn thất thiệt làm lệch lạc tình trạng hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mưu lợi bất chính. Điều này, yêu cầu các cơ quan nhà nước không chỉ quy định một cách chung chung trong luật mà cần có cơ chế thanh tra giám sát rõ ràng và một chế tài xử phạt nghiêm minh, tạo hành lanh pháp lý cho thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cổ phần phát triển.
b) Làm phong phú đa dạng các loại chứng khoán trên thị trường
Để tạo cung cầu chứng khoán - điều kiện cho thị trường phát triển thật sự – thì cần làm phong phú hàng hóa trên thị trường chứng khoán, làm cho thị trường chứng khoán trở thành nơi đáng tin cậy, nơi mà nhà đầu tư cho rằng, quyền lợi chân chính của họ được bảo vệ. Thị trường chứng khoán không chỉ là thị trường đầu tư mà còn là một cơ chế để các doanh nghiệp cổ phần thực hiện các nghiệp vụ tài chính, nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro. Sự thiếu mặt của các loại chứng khoán phái sinh như hợp đồng tương lai (future), hợp đồng kỳ hạn (forward), hợp đồng quyền chọn (option), quyền mua cổ phần
(warrant) đã làm hạn chế việc sử dụng các công cụ tài chính để ngăn ngừa, phòng chống rủi ro của doanh nghiệp. Do đó, nhà nước cần nhanh chóng bổ sung các mặt hàng này cho thị trường, đồng thời với việc tạo ra một khung pháp lý chặt chẽ, rõ ràng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.2. Tối ưu hóa cơ cấu vốn
Cơ cấu vốn là tổng hợp các nguồn tài trợ dài hạn của doanh nghiệp bao gồm nợ dài hạn, vốn cổ phần ưu đãi và vốn cổ phần thường và quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần đó trong tổng nguồn vốn dài hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nói chung có thể tìm nguồn tài trợ dài hạn thông qua thị trường vốn như: thị trường tín dụng cho thuê, thị trường tín dụng thế chấp, đặc biệt công ty cổ phần có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
Do công ty cổ phần thường tài trợ cho hoạt động của mình bằng nhiều nguồn vốn khác nhau như vốn chủ sở hữu, vốn đi vay. Sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu sẽ làm giảm khả năng sinh lời trên vốn chủ (ROE) tuy nhiên rủi ro khi sử dụng đồng vốn này thấp, do doanh nghiệp không phải trả lãi vay định kỳ và không chịu áp lực từ người cho vay. Sử dụng vốn vay hiệu quả sẽ làm tăng khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), hơn nữa lại tạo ra “lá chắn thuế” cho doanh nghiệp, tuy nhiên rủi ro sử dụng nguồn vốn này cũng cao hơn do áp lực trả lãi vay và sự can thiệp của chủ nợ vào hoạt động của doanh nghiệp.
Tỷ lệ nợ lớn làm cho hệ số nợ của doanh nghiệp tăng lên thì độ rủi ro của nó cũng tăng lên, tỷ lệ thuận với mức độ sử dụng vốn nợ của công ty. Như vậy, vốn nợ có thể tăng giá trị của công ty do lợi thế về thuế của nó, nhưng cũng có thể làm giảm giá trị của công ty do nó tạo ra và làm tăng mức rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
Quyết định về cơ cấu vốn là một sự đánh đổi giữa mức rủi ro gánh chịu và lượng lợi nhuận tăng thêm thu được, và như vậy công ty cần phải xác định mức vốn nợ tối ưu trong cơ cấu vốn của nó.
1.3. Nâng cao năng suất lao động
Nâng cao năng lực của đội ngũ lao động
Thực hiện tốt các chính sách phúc lợi đối với người lao động, cho họ quyền được mua và làm chủ cổ phần của doanh nghiệp, tạo sự gắn bó bền chặt, trực tiếp về mặt lợi ích giữa người lao động với doanh nghiệp.
Có chính sách thưởng, phạt hợp lý, phân minh, tạo động lực cho người lao động hăng say làm việc.
Thường xuyên tổ chức các chương trình đào tạo lại, nhằm nâng cao tay nghề của người lao động, bắt kịp với sự thay đổi của công nghệ.
Cải tiến máy móc công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất Sử dụng hiệu quả nguồn vốn thặng dư sau khi phát hành cổ phần trong
việc cải tiến máy móc kỹ thuật của doanh nghiệp.
Xây dựng cơ chế giám sát, đánh giá năng suất lao động
Doanh nghiệp nên xây dựng riêng hoặc tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng quốc tế như ISO 9000 vào quy trình sản xuất của mình. Nếu làm được việc này, một mặt vừa nâng cao được năng suất lao động, mặt khác hàng hóa sản xuất ra đạt tiêu chuẩn quốc tế sẽ dễ dàng thâm nhập vào các thị trường xuất khẩu khó tính.
1.4. Hạn chế rủi ro kinh doanh và tài chính bằng cách sử dụng một cách chuyên nghiệp và có hiệu quả các công cụ tài chính
Rủi ro kinh doanh của công ty là sự bất định của thu nhập ròng khi công ty không sử dụng vốn nợ, được đo lường bằng tỷ lệ giữa thu nhập ròng
và vốn chủ sở hữu (ROE) do sự thay đổi của điều kiện kinh tế hay điều kiện hoạt động của công ty.
Rủi ro tài chính là sự biến động của thu nhập ròng (lợi nhuận sau thuế) do ảnh hưởng của chi phí trả lãi vay cố định khi tình hình kinh tế biến động.
Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn bị tác động trực tiếp bởi các yếu tố môi trường. Do đó, sự biến động của môi trường kinh doanh luôn luôn tạo ra cho doanh nghiệp những rủi ro tiềm ẩn. Nếu các quyết định quản lý không xem xét đến các yếu tố rủi ro thì các kết quả dự báo có thể quá lạc quan và có thể khác xa với kết quả thực tế có thể đạt được.
Để hạn chế sự biến động của giá đầu vào hay đầu ra nhằm ổn định dòng thu nhập dự kiến, công ty có thể sử dụng nghiệp vụ “Hedging” (tự bảo hiểm) trên thị trường tài chính. Nếu công ty không muốn ổn định giá đầu vào hay muốn chặn không cho giá vật tư nguyên liệu biến động tăng vượt quá mức có thể chấp nhận được, công ty nên mua nguyên vật liệu qua hợp đồng tương lai. Để ổn định giá đầu ra hay ngăn chặn không cho giá sản phẩm dịch vụ giảm xuống quá mức có thể chấp nhận được, công ty nên bán hàng hóa dịch vụ qua hợp đồng tương lai. Công ty có thể mua bán quyền chọn (option) để hạn chế rủi ro biến động về giá chứng khoán trong hoạt động đầu tư tài chính. Công ty nên trích quỹ dự phòng biến động giá trị các loại tài sản nhằm giảm thiểu tổn thất trên thị trường.
Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính phù hợp với ngành nghề và tính chất của doanh nghiệp mình nhất, kết hợp với hệ thống chỉ tiêu tài chính phổ biến thường dùng bao gồm: nhóm chỉ tiêu thanh toán, nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn, nhóm chỉ tiêu lợi nhuận, nhóm chỉ tiêu cơ cấu tài chính.