thực hiện bằng các phương pháp kiểm tra sư phạm, sinh hoá và chức năng. Trong các môn thể thao có chu kỳ, trước hết cần xác định sức bền chung và chuyên môn, trình độ tập luyện về tốc độ, sức mạnh tốc độ và sức mạnh của VĐV. Mục đích này cần áp dụng các hệ thống thử nghiệm về các mặt khác nhau của trình độ tập luyện ở VĐV trẻ, các phương pháp xác định khả năng hoạt động chung và chuyên môn, theo dòi về tâm - sinh lý [96], [97].
Trong các môn thể thao sức mạnh - tốc độ, việc kiểm tra tổng hợp nhằm làm rò các dấu hiệu hình thái - chức năng; các đặc điểm hoạt động thần kinh cao cấp và sự thể hiện các phẩm chất cá nhân; xác định trình độ tập luyện thể lực, kỹ thuật của các VĐV trẻ, mức độ phát triển các khả năng phối hợp của chúng. Cần sử dụng rộng rãi các thử nghiệm sư phạm (test), quan sát sư phạm, các phương pháp nghiên cứu y sinh học. Ở những môn thể thao phức tạp về kỹ thuật, trong quá trình đánh giá tổng hợp nên đưa vào các thang điểm chuẩn có khả năng hợp nhất các chỉ tiêu có chỉ số đo khác nhau (kg, cm, số lần...). Lúc này cần chuyển đổi các kết quả thực hiện bài tập bất kỳ nào đó thành điểm [85], [86], [87].
Trong các môn bóng mục tiêu của đánh giá tổng hợp là thu nhận những số liệu về trình độ tập luyện kỹ - chiến thuật, thể lực, tâm lý, về các khả năng chức năng cơ thể của VĐV trẻ. Trong những môn thể thao này, trước hết cần đánh giá mức độ phát triển sức nhanh, sức bền chung và chuyên môn, các tố chất sức mạnh - tốc độ, khả năng khéo léo, trình độ thực hiện điêu luyện kỹ - chiến thuật. Nhằm mục đích, tiến hành quan sát sư phạm, sử dụng phương pháp đánh giá của chuyên gia, ghi tốc ký các chỉ số thi đấu, các thử nghiệm (test) nhằm xác định các mặt khác nhau của trình độ tập luyện ở VĐV, các phương pháp theo dòi tâm lý [94], [96].
Theo V.P. Philin phạm vi lứa tuổi bắt đầu giai đoạn chuyên môn hoá ban đầu ở môn bóng rổ, bóng chuyền là lứa tuổi 11 – 12 [50]. Ron Ekker (2013) đã phân chia các giai đoạn đào tạo VĐV bóng rổ. Tác giả xác định
những điểm nhấn mạnh ở 4 giai đoạn khác nhau. Theo Portnova thì huấn luyện chuyên môn hoá ban đầu được tiến hành từ 11 – 13 tuổi với tổng số giờ là 416 giờ (lý thuyết: 18; thể lực chung: 126; thể lực chuyên môn: 65; kỹ thuật: 100; chiến thuật: 52; phối hợp kỹ - chiến thuật: 34; kiểm tra – đánh giá: 34 [56].
Theo Thomas R., Baechle và Roger W. Earle (2000) [95] trong công trình huấn luyện sức mạnh đã chỉ rò: Hầu hết sự kết hợp huấn luyện sức mạnh, sức nhanh và sức bền theo môn thể thao rất phức tạp, vì vậy sức mạnh trong các môn thể thao được xem như một cơ chế quan trọng trong việc thực hiện các kỹ thuật và các hoạt động vận động. Lý do để phát triển sức mạnh không chỉ để trở nên mạnh mẽ, mà mục đích chính của phát triển sức mạnh là đáp ứng được các yêu cầu đặc thù của từng môn thể thao, phát triển sức mạnh chuyên môn, nhằm phát triển thành tích vận động lên mức cao nhất có thể. Trong hoạt động tập luyện và thi đấu bóng rổ các loại sức mạnh đặc trưng bao gồm: sức mạnh bật nhảy, sức mạnh tốc độ thời gian trung bình, sức mạnh tăng tốc và sức mạnh giảm tốc.
1.6.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Vấn đề nghiên cứu hệ thống các bài tập ứng dụng trong giảng dạy - huấn luyện môn bóng rổ cho các đối tượng nghiên cứu khác nhau ở nước ta đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả:
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Huấn Luyện Sức Mạnh Tốc Độ Bóng Rổ
- Cơ Sở Lý Luận Về Kỹ Thuật Thể Thao
- Đặc Điểm Phát Triển Về Hình Thái, Chức Năng Tâm - Sinh Lý Của Vận Động Viên Nữ
- Tiêu Chuẩn Đánh Giá Test Cooper Của Các Lứa Tuổi
- Test Chạy Chữ T Các Test Chuyên Môn.
- Nghiên Cứu Thực Trạng Trình Độ Tập Luyện (Sức Mạnh Tốc Độ) Làm Cơ Sở Nâng Cao Năng Lực Ném Rổ Từ Xa
Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.
Lê Nguyệt Nga (2004), “Nghiên cứu trình độ tập luyện của VĐV bóng rổ nam nữ cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh” [46];
Đặng Hà Việt (2006), với đề tài “Xây dựng hệ thống bài tập phát triển sức bền chuyên môn cho VĐV đội tuyển bóng rổ nam quốc gia” [81];
Lưu Thiên Sương (2004), “Nghiên cứu đánh giá sự mệt mỏi - hồi phục của VĐV đội tuyển bóng rổ nữ Tp. Hồ Chí Minh” [60];
Phạm Văn Thảo, Đinh Quang Ngọc (2006), “Nghiên cứu lựa chọn các bài tập thể lực chuyên môn cho sinh viên chuyên sâu bóng rổ Trường đại học TDTT I theo chương trình đào tạo” [64].
Lê Vũ Kiều Hoa (2007), “Lựa chọn và ứng dụng hệ thống bài tập phát triển sức mạnh chuyên môn cho đội tuyển bóng rổ nữ quốc gia” [29];
Lê Thế Hùng (2004), “Nghiên cứu xác định một số nội dung và chỉ tiêu tuyển chọn VĐV bóng rổ nữ tỉnh Yên Bái lứa tuổi 13 – 14” [32],
Bùi Duy Hiếu (2011), “Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực chuyên môn cho nữ VĐV bóng rổ Hà Nội” [27];
Nguyễn Hữu Thiệp (2011), “Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn nữ VĐV bóng rổ trẻ vào giai đoạn huấn luyện ban đầu 9 - 11 tuổi tỉnh Yên Bái” [65].
Nguyễn Văn Hải (2013), “Đánh giá hiệu quả kế hoạch huấn luyện VĐV bóng rổ trẻ lứa tuổi 11 – 13” [21].
Qua tìm hiểu các đề tài nghiên cứu về bóng rổ của các tác giả trong và ngoài nước, có một số nhận xét như sau:
Hầu hết các tác giả trong và ngoài nước có sự tương đồng nhất định trong việc sử dụng hệ thống các bài tập thuộc các nhóm khác nhau nhằm phát triển các năng lực chuyên môn cho VĐV bóng rổ như: Các năng lực về kỹ - chiến thuật, các tố chất thể lực chuyên môn (sức nhanh, sức mạnh tốc độ, sức bền, khả năng phối hợp vận động).
Việc đánh giá trong các giai đoạn huấn luyện cho các đối tượng chủ yếu sử dụng các chỉ tiêu, các test để tuyển chọn và thải loại VĐV. Các test đánh giá chủ yếu dưới góc độ sư phạm, chưa ứng dụng nhiều các test có sử dụng phương tiện kỹ thuật tin cậy. Đối với các đối tượng là VĐV, sinh viên chuyên sâu bóng rổ thì các bài tập, các test sử dụng trọng huấn luyện, kiểm tra kỹ chiến thuật, thể lực có tỷ lệ và mức độ ưu tiên như nhau.
Đối với các đối tượng là sinh viên không chuyên ngành TDTT thì tỷ lệ và mức độ ưu tiên của các bài tập, các test chủ yếu liên quan đến việc lựa chọn các bài tập bóng rổ để phục vụ huấn luyện kỹ - chiến thuật nâng cao thể lực chung và chuyên môn.
Quá trình huấn luyện VĐV bóng rổ cần kết hợp chặt chẽ giữa các chỉ tiêu, test đánh giá khác nhau và hiệu quả kế hoạch huấn luyện phải gắn liền với rèn luyện các tố chất thể lực. Tuỳ theo yêu cầu của mỗi loại năng lực và giai đoạn huấn luyện khác nhau, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả của công tác giảng dạy - huấn luyện.
Mặc dù lý luận về công tác huấn luyện chung và một số môn thể thao nói riêng đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, song các vấn đề còn tồn tại nêu trên của môn bóng rổ ở Việt Nam thực sự là vấn đề mới và cần được các nhà khoa học đầu tư nghiên cứu để hoàn thiện quy trình huấn luyện VĐV bóng rổ trẻ. Đặc biệt là trong giai đoạn chuyên môn hoá ban đầu.
Môn bóng rổ yêu cầu phát triển hài hoà các tố chất, nếu chỉ dùng một vài chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của một chương trình đơn lẻ thì không hợp lý. Đặc biệt sau khi bước vào giai đoạn huấn luyện ban đầu, giai đoạn mà VĐV phải chuẩn bị một cách toàn diện cho các giai đoạn tiếp sau như: khả năng chức phận cần ở trạng thái tối ưu, chiến thuật đa dạng biến hoá và thành thạo, kỹ thuật ổn định ở mức cao.
Tóm lại, các công trình chủ yếu nghiên cứu theo hướng hoàn thiện hệ thống bài tập, phát triển các tố chất thể lực trong giảng dạy môn bóng rổ hoặc ngoại khoá cho đối tượng sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học. Hàng loạt công trình nghiên cứu khoa học có chất lượng, mang tính điều tra, đánh giá và định hướng ứng dụng ở một số môn thể thao như bóng đá, điền kinh, bơi lội, bóng chuyền… Tuy nhiên cho đến nay, có rất ít công trình nghiên cứu trên đối tượng VĐV bóng rổ nữ cấp cao.
Tổng kết chương 1:
Bóng rổ thế giới đã trở nên rất phổ biến và chuyên nghiệp cao. Việt Nam những năm gần đây có sự phát triển tương đối tốt, song một thời gian dài bóng rổ Việt Nam tiến bộ chậm và đã dần phát triển qua giải bóng rổ các đội mạnh toàn quốc và một số câu lạc bộ. Chất lượng chuyên môn của các giải đấu chưa cao, mà một trong các nguyên nhân chính là chưa hệ thống huấn luyện và thi đấu chuyên nghiệp. chưa có nhiều các vận động viên giỏi, hệ thống tuyển chọn và đào tạo còn nhiều khó khăn, bất cập. Ở Việt Nam vẫn chưa bắt kịp xu hướng của bóng rổ hiện đại là nắm vững và tinh thông kỹ chiến thuật. Do vậy, cần kế thừa các phương pháp dạy học kỹ thuật vận động rất phong phú, đã được nhiều chuyên gia xây dựng. Sau khi học kỹ thuật, các phương pháp đánh giá kỹ thuật thể thao được ứng dụng với nhiều phương pháp khác nhau. Đồng thời sử dụng phương pháp lập test sư phạm hoặc phương pháp quan trắc video để đánh giá.
Tố chất sức mạnh là một trong những tố chất quan trọng của VĐV. Đối với VĐV bóng rổ, tố chất sức mạnh tốc độ là rất quan trọng. Kết hợp phát triển sức mạnh tốc độ với kỹ thuật ném rổ từ xa rất quan trọng để đem lại hiệu quả thi đấu cao. Đây là phương pháp hợp lý, có hiệu quả nhất định, song ít được chú trọng trong tập luyện và thi đấu bóng rổ.
Kỹ thuật bóng rổ khá phức tạp và phân thành 2 loại chính: kỹ thuật tấn công và kỹ thuật phòng thủ. Trong mỗi phần lại được chia ra làm hai nhóm: kỹ thuật tấn công gồm kỹ thuật di chuyển và kỹ thuật kiểm soát bóng; kỹ thuật phòng thủ gồm kỹ thuật di chuyển, kỹ thuật cướp bóng và phản công. Ở mỗi nhóm đều có các động tác và phương pháp thực hiện động tác. Hầu như mỗi một phương pháp thực hiện động tác cũng có một số biến dạng, thể hiện các chi tiết riêng về cấu trúc động tác. Ngoài ra những điều kiện thực hiện thể hiện đặc thù di chuyển, tư thế ban đầu, hướng và khoảng cách của VĐV cũng ảnh hưởng tới cấu trúc động học của phương pháp thực hiện đông tác. Việc
phân tích từng phương pháp thực hiện các động tác kỹ thuật dựa trên cơ sở cấu trúc hệ thống. Trong trường hợp này, phương pháp thực hiện được xem như là một hệ thống, bao gồm nhiều cử động của các bộ phận cơ thể VĐV. Xuất phát từ điều đó, trong bóng rổ cần phân biệt: các giai đoạn chuẩn bị của động tác (tạo tiền đề để thực hiện thành công động tác), các giai đoạn cơ bản hay các giai đoạn làm việc (đạt được mục đích) và các giai đoạn kết thúc là giai đoạn chuyển từ thực hiện động tác sang trạng thái chuẩn bị cho các động tác tiếp theo. Vì vậy, trong thực tế trong huấn luyện kỹ thuật ném rổ từ xa cần phải biết không chỉ là một động tác thể thao (một thành phần của hệ thống) bao gồm từ những cử động (yếu lĩnh) nào mà còn phải biết các yếu lĩnh đó liên quan tới nhau và tác động qua lại lẫn nhau.
Kết quả tổng hợp và phân tích các công trình nghiên cứu liên quan ở trong và nước ngoài, ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào nghiên cứu về hệ thống hóa các bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ thực hiện kỹ thuật ném rổ từ xa đối với VĐV nữ bóng rổ Đội tuyển Quảng Ninh. Lựa chọn bài tập đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, song còn chưa đi sâu nghiên cứu về kỹ thuật ném rổ từ xa và các mối liên hệ với các yếu tố khác. Từ những kết quả nghiên cứu về phát triển sức mạnh tốc độ thực hiện kỹ thuật ném rổ từ xa, cho phép rút ra một số vấn đề có thể phù hợp khi lựa chọn bài tập và ứng dụng trong công tác huấn luyện đối với VĐV nữ bóng rổ Đội tuyển Quảng Ninh. Đặc biệt, khi ứng dụng cần nghiên cứu sao cho phù hợp với thực tiễn công tác huấn luyện đối với VĐV nữ bóng rổ Đội tuyển Quảng Ninh.
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng chủ thể nghiên cứu
Bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ thực hiện kỹ thuật ném rổ từ xa (ném rổ 3 điểm) đối với VĐV Đội tuyển bóng rổ nữ Quảng Ninh.
2.1.2 Đối tượng khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận án là 9 VĐV Đội tuyển bóng rổ nữ Quảng Ninh, tuổi từ 16-22, năm tập luyện từ 3 -7 và các chuyên gia, HLV.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
Áp dụng phương pháp này nhằm tổng hợp các tài liệu để xây dựng giả định khoa học, xác định các nhiệm vụ nghiên cứu, hình thành cơ sở lý luận, định hướng xây dựng các bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ để thực hiện kỹ thuật ném rổ từ xa của VĐV bóng rổ nữ đội tuyển Quảng Ninh. Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong các công trình nghiên cứu mang tính lý luận, sư phạm.
Phương pháp này giúp cho việc hệ thống hoá kiến thức có liên quan tới việc nghiên cứu, hình thành cơ sở lý luận về các bài tập nhằm phát triển sức mạnh của đối tượng nghiên cứu. Các tài liệu đã thu thập được cũng như công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước, công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đã được dịch sang tiếng Việt, các tạp chí chuyên ngành, kỷ yếu của hội nghị khoa học, cũng như các tài liệu mang tính chất lý luận phục vụ mục đích nghiên cứu của luận án.
Các sách gồm có: Sách lý luận, tâm lý, sinh lý học, các sách huấn luyện, sách chuyên môn bóng rổ.
Các đề tài nghiên cứu về môn bóng rổ, các tài liệu nghiên cứu khoa học huấn luyện thể dục thể thao…
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Thông qua phiếu điều tra, khảo sát những vấn đề liên quan đến đề tài, lấy ý kiến của các chuyên gia, HLV để hệ thống hóa các bài tập nhằm phát triển sức mạnh tốc độ thực hiện kỹ thuật ném rổ từ xa của VĐV Đội tuyển bóng rổ nữ Quảng Ninh.
Để đảm bảo tính khách quan, hệ thống bài tập ném rổ từ xa được kiểm chứng thông qua khảo sát ý kiến. Đối tượng phỏng vấn của đề tài là các HLV, các chuyên gia đang làm công tác huấn luyện cử tạ ở một số trung tâm có đào tạo VĐV cử tạ. Kết quả của việc sử dụng phương pháp nghiên cứu này được trình bày ở phần kết quả nghiên cứu của đề tài.
Câu hỏi phỏng vấn 3 mức độ: Rất cần thiết (C3); Cần thiết (C2); Không cần thiết (C1) thì đánh giá như sau:
1.00 - 1.67: Thuộc mức không cần thiết.
1.68 - 2.34: Thuộc mức cần thiết.
2.35 - 3.00: Thuộc mức rất cần thiết.
2.2.3. Phương pháp quan trắc video
Phương pháp quan trắc video 2D và 3D dùng để đánh giá kỹ thuật động tác bằng các thông số động học về thời gian, góc độ, tốc độ, gia tốc... Sau khi dùng video ghi hình một kỹ thuật nào đó (chẳng hạn kỹ thuật nhảy xa) có ghi hình đồng thời giá chuẩn không gian chuyên dùng để làm tỷ lệ đo không gian 3 chiều. Người ta có nhiều phần mềm số hóa các điểm ảnh và các thuật toán đo lường các thông số không gian, thời gian.
Từ đó, chuyên viên phân tích kỹ thuật sẽ đánh dấu các khớp của VĐV trên mỗi khuôn hình ảnh (hoặc cách mỗi khuôn hình đánh dấu một lần), sử dụng lệnh thích hợp để máy vi tính tự động tính toán các tham số kỹ thuật ném rổ từ xa muốn có như: