Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam - 15

Các thiết chế kinh tế nhìn chung hoạt động như những doanh nghiệp sinh lời trong cơ chế cạnh tranh, do đó để tồn tại các thiết chế này phải ngày càng hoàn thiện tính chuyên nghiệp trong quá trình tham gia quản lý xã hội và kinh tế tốt hơn.

Hoàn thiện các quy định của LDN nói chung, các quy định pháp lý về góp vốn nói riêng, trong đó có cả các quy định về góp vốn bằng TSTT cần tiến hành đồng thời với việc hoàn thiện các thiết chế xã hội, kinh tế như kế toán doanh nghiệp, tư vấn, luật sư, tổ chức định giá và các tổ chức trọng tài giải quyết các tranh chấp thương mại.

Việc hoàn thiện các thiết chế này cần thực hiện theo hướng tạo lập hành lang pháp lý cho các thiết chế này hoạt động như những tổ chức độc lập, chịu trách nhiệm pháp lý trước pháp luật về sự trung thực, chính xác về các hoạt động tham gia vào quản lý xã hội, kinh tế và hoạt động theo cơ chế cạnh tranh. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào các hoạt động xây dựng và phát triển TSTT của các tổ chức, cá nhân. Sự tham gia đó không chỉ dừng lại ở phạm vi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và tham gia các điều ước quốc tế để bảo đảm bảo hộ đầy đủ và hiệu quả các TSTT mà cả dưới hình thức hỗ trợ tài chính, xây dựng chính sách, tuyên truyền, đào tạo nhân sự, quản lý, thương mại hóa TSTT v.v... cho các doanh nghiệp.


3.4. XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH NHẰM PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ CỦA TÀI SẢN TRÍ TUỆ

Chúng ta đang ở trong một nền kinh tế tri thức, vì thế những TSTT có một giá trị không thể chối cãi trong các hoạt động kinh tế và phát triển đất nước, vì thế việc xây dựng một chính sách phát triển những giá trị của tài sản này là một yêu cầu trước mắt cần thực hiện ngay.

Giáo dục ý thức cho nhân dân về giá trị của TSTT. Các doanh nghiệp và người dân Việt Nam vẫn chưa ý thức nhiều về giá trị của những thứ không có hình thái vật chất này. Người dân chúng ta có câu nói "trăm nghe không

bằng một thấy, trăm thấy không bằng một sờ", quan niệm này có lẽ đã tới lúc cần thay đổi bởi những gì không thấy, không sờ được lại là những thứ tạo ra những giá trị kinh tế lớn lao cho đất nước, mới là thứ động lực cần được sử dụng triệt để nhằm phát triển đất nước. Đối với các doanh nghiệp, cần tạo cho các doanh nghiệp một tư duy rõ ràng về giá trị của TSTT ngay từ khi họ bắt đầu xây dựng các tài sản vô hình này, từ đó có một chiến lược phát triển hợp lý cho doanh nghiệp.

Tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc và hiểu biết sâu hơn pháp luật liên quan đến TSTT. Có thể thấy, với việc ngày càng hiểu rõ giá trị tiềm ẩn của TSTT, các công ty không ngừng tăng cường quản lý và sử dụng có hiệu quả các TSTT của mình. Việc tăng cường quản lý và sử dụng đó không chỉ là việc bảo vệ mang tính chất phòng ngừa đơn thuần nhằm chống lại hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà còn là một công cụ kinh doanh đầy hữu hiệu để tăng lợi thế cạnh tranh và nâng cao hình ảnh cũng như uy tín của công ty trên thị trường. TSTT được coi là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ trên thị trường, vì vậy việc bảo vệ khả năng cạnh tranh trong các trường hợp đó chính là bảo vệ vị thế thị trường. Một cơ chế bảo hộ lành mạnh và hiệu quả sẽ là động lực và là chỗ dựa cả về tinh thần và vật chất để các nhà đầu tư không ngần ngại đầu tư chi phí vào việc phát triển, khai thác các TSTT của mình, là công cụ ngăn chặn và trừng phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng như các hành vi chiếm đoạt bất chính thành quả đầu tư tài chính và sáng tạo và hành vi gian dối khác liên quan đến TSTT.

Tạo điều kiện để các doanh nghiệp là những chủ thể đi đầu trong công tác định giá TSTT. Ai cũng biết rằng việc mua bán giữa các doanh nghiệp là dựa trên sự thỏa thuận, vì thế ngay từ bây giờ, nếu chúng ta trang bị được những kiến thức cần thiết cho các doanh nghiệp trong hoạt động định giá tài sản vô hình, các doanh nghiệp của chúng ta sẽ có những lợi thế nhất định trong khi đàm phán các hoạt động kinh doanh có liên quan tới tài sản vô

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

hình như mua bán, chuyển nhượng, cấp lisence, vay vốn ngân hàng, góp vốn kinh doanh....Lấy ví dụ như một công ty Việt Nam thương thảo việc bán lại công ty cho một tập đoàn nước ngoài, nhờ việc hiểu biết những giá trị thực về TSTT của mình, công ty sẽ đưa ra một mức giá cao hơn và có những lý luận vững chắc cho mức giá cao ấy.

Phát triển các trung tâm định giá chuyên nghiệp và xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên sâu về thẩm định giá TSVH nói chung và TSTT nói riêng. Hiện nay các trung tâm định giá của chúng ta tuy có nhưng chưa nhiều, và chưa có những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết về việc định giá. Thêm vào đó hầu hết các trung tâm định giá của chúng ta đều chủ yếu chuyên sâu về lĩnh vực bất động sản, các trung tâm định giá chuyên sâu về định giá TSVH là chưa hề có tại Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu xã hội, việc định giá TSVH cũng như TSTT đòi hỏi với những phép tính hết sức cẩn trọng của những chuyên gia có trình độ, chuyên môn và kinh nghiệm về thẩm định giá là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, hiện tại, số lượng chuyên gia về việc định giá TSVH của Việt Nam chỉ đếm trên đầu ngón tay không đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do đó, Nhà nước cần có chính sách nhằm nâng cao chất lượng cũng như số lượng của đội ngũ chuyên gia này. Chúng ta cần gửi các sinh viên đi học tập ở nước ngoài về chuyên ngành này, đồng thời phối hợp với các chuyên gia giỏi trong và ngoài nước về lĩnh vực này để tiến hành mở các lớp đào tạo về chuyên ngành thẩm định giá TSVH trong nước.

Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam - 15

Tóm lại, hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT còn là một vấn đề hết sức mới mẻ cần đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn trong nước và học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Để hoạt động này phát triển có hiệu quả đem lại nhiều lợi ích cho xã hội, chúng ta phải kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và các thiết chế kinh tế, xã hội tạo môi trường pháp lý công bằng, bình đẳng, thuận lợi góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

KẾT LUẬN


Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, TSTT ngày càng được thừa nhận là một loại tài sản đặc biệt quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, cho dù đó là nước phát triển, đang phát triển hay là nước kém phát triển. Nếu trước đây, đất đai, tài nguyên thiên nhiên hay lao động chân tay được coi là thước đo tiềm lực của một nền kinh tế thì ngày nay, TSTT đang dần thay thế những yếu tố đó và trở thành đòn bẩy phát triển kinh tế của đất nước. Trên bình diện quốc tế, ngày nay các quốc gia tập trung phát triển nền kinh tế của mình theo hướng dựa vào tri thức, và thực tiễn đã chứng tỏ rằng TSTT là một yếu tố cơ bản luôn gắn liền với xu hướng phát triển đó. Để đưa giá trị TSTT vào khai thác, sử dụng với tư cách là tài sản góp vốn, pháp luật cần tạo hành lang pháp lý để hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT thực sự là một hoạt động kinh tế hiện hành.

Pháp luật là nền tảng tạo ra một xã hội công bằng, bình đẳng và ổn định. Để đáp ứng được vai trò của mình pháp luật phải phản ánh đúng được thực tế khách quan, phù hợp với hoàn cảnh điều kiện, truyền thống của đất nước, phản ánh được tính hiện đại, xu hướng phát triển, vừa có tính khái quát, rõ ràng và phải minh bạch. Nghiên cứu các quy định pháp luật về tài sản góp vốn và đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về tài sản góp vốn kinh doanh bằng TSTT theo LDN và các văn bản pháp luật có liên quan, luận văn này góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, trung thực, minh bạch và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp khai thác và sử dụng có hiệu quả TSTT và đồng thời nâng cao vai trò của các thiết chế kinh tế trong hoạt động kinh doanh cũng như quản lý kinh tế với mục đích cuối cùng nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty, vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, Nxb Tri thức, Hà Nội.

2. Bộ phận doanh nghiệp vừa và nhỏ (WIPO) (2008), "Sở hữu trí tuệ dành cho doanh nghiệp", http://www.wipo.int/sme.

3. Bộ Tài chính (2001), Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12 về việc ban hành và công bố bốn (04) chuẩn mực kế toán Việt Nam (đợt 1), Hà Nội.

4. Bộ Tài chính (2004), Quyết định số 21/2004/QĐ-BTC ngày 24/2 về ban hành chế độ cấp, sử dụng và quản lý thẻ thẩm định viên về giá, Hà Nội.

5. Bộ Tài chính (2006), Thông tư số 17/2006/TT-BTC ngày 13/3 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 3/8/2005 về thẩm định giá, Hà Nội.

6. Bộ Tài chính (2008), "Chuyên đề pháp luật áp dụng trong hoạt động định giá, thẩm định giá", www.mof.gov.vn.

7. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10 hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định, Hà Nội.

8. Bộ Tài chính (2010), Công văn số 2349/BTC-TCDN ngày 25/2 hướng dẫn thực hiện thí điểm đối với Tập đoàn Vinashin, Hà Nội.

9. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 202/2011/TT-BTC ngày 30/12 hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ, Hà Nội.

10. Nguyễn Hữu Cẩn (2009), Thực trạng pháp luật hiện hành của Việt Nam về tài sản trí tuệ và định giá tài sản trí tuệ, Đề tài nghiên cứu khoa học Viện Khoa học sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

11. Chính phủ (2003), Nghị định số 170/2003/NĐ-CP ngày 25/12 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh giá, Hà Nội.

12. Chính phủ (2005), Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 13/8 về thẩm định giá, Hà Nội.

13. Chính phủ (2006), Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

14. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, Hà Nội

15. Chính phủ (2006), Nghị định 24/2007/NĐ-CP ngày 14/02 quy định chi tiết Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Hà Nội.

16. Chính phủ (2008), Nghị định số 75/2008/NĐ-CP ngày 9/6 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 170/2003/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giá, Hà Nội.

17. Chính phủ (2010), Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp, Hà Nội.

18. Chính phủ (2010), Nghị định số 122/2010/NĐ-CP ngày 31/12 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

19. Chính phủ (2011), Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần, Hà Nội.

20. Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (2007), Chiến lược công nghiệp của các doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, Top 200, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

21. Bùi Ngọc Cường (2001), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

22. Hải Dương (7/5/2011), "Góp vốn bằng thương hiệu doanh nghiệp tùy cơ ứng biến", http://daibieunhandan.vn.

23. Đào Minh Đức (01/2011), "Bài giảng: Vốn hóa tài sản trí tuệ",

http://taxvietnam.com.

24. Nguyễn Hoàng Hạnh (2009), Định giá tài sản trí tuệ, kinh nghiệm của Trung Quốc, Đề tài nghiên cứu khoa học, Cục Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

25. Nguyễn Minh Hoàng (2005), Nguyên lý chung định giá tài sản và giá trị doanh nghiệp, Nxb Thống kê, Hà Nội.

26. Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của Hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2002), Giáo trình Luật tài chính Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

28. Hạnh My (13/05/2011), "Góp vốn bằng thương hiệu: Doanh nghiệp "bơi" cách nào cũng đúng", http://dddn.com.vn.

29. Trần Văn Nam (2008), Thực trạng việc góp vốn bằng tài sản trí tuệ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, Đề tài khoa học cấp trường, Khoa Luật, Đại học kinh tế Quốc dân.

30. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

31. Quốc hội (1996), Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.

32. Quốc hội (1999), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

33. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội

34. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

35. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, Hà Nội.

36. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội.

37. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

38. Quốc Hội (2006), Luật Chuyển giao công nghệ, Hà Nội.

39. Quốc hội (2009), Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

40. Nguyễn Văn Thanh (2003), Những vấn đề pháp lý về góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật Doanh nghiệp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

41. Võ Văn Thành (22/8/2008), "Còn thất thoát, lãng phí trong cổ phần hoá",

http://www.tuoitre.com.vn.

42. Đinh Tịnh (29/4/2008), "Vinashin cổ phần hóa 4 doanh nghiệp",

http://vneconomy.vn.

43. Tổng cục Thuế (2009), Công văn số 2506/TCT-CS ngày 19/6 gửi Công ty cổ phần Sứ Kỹ thuật Hoàng Liên Sơn về giá trị thương hiệu Vinashin, Hà Nội.

44. Đoàn Văn Trường (2008), Tuyển tập các phương pháp thẩm định giá trị tài sản, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

45. Nguyễn Thị Tuyết (2009), Vai trò của tài sản trí tuệ và thực trạng nhận thức của doanh nghiệp và các cơ quan tài phán Việt Nam về tài sản trí tuệ trong cổ phần hóa doanh nghiệp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

46. Ủy ban Thường vụ quốc hội (2002), Pháp lệnh Giá, Hà Nội.

47. Nguyễn Hồng Vân (2010), "Một số vấn đề về góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu", Hoạt động khoa học, (7).

48. Phạm Thế Vinh (2006), "Góp vốn bằng nhãn hiệu, tại sao không, Công ty Tư vấn Luật và Kiểm toán Hoàng gia - SCCT", http://www.hoanggia- scct.com, ngày 13/10.

49. Vũ Thị Hải Yến (2008), Tài sản trí tuệ và các phương pháp định giá tài sản trí tuệ trong hoạt động kinh doanh thượng mại của doanh nghiệp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trung tâm Sở hữu trí tuệ - Trường Đại học Luật Hà Nội.

TIẾNG ANH

50. Kamil Idris (2003), Intellectual Property a Power tool for Economic growth, World Intellectual Property Organization (WIPO).

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 12/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí